Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2018

Phan mo dau: Thanh toan nhung quan niem sai lam va chat hep ve chu “tu”



Chữ "tu" có lẽ là một chữ đã có từ lâu lắm trong danh từ của người Trung Hoa và Việt Nam. Thế mà cho đến ngày nay còn không biết bao nhiêu người, cả trong giới Phật tử lẫn người ngoài còn quan niện chữ "Tu" một cách sai lầm, chật hẹp, mập mờ...
Ít ai hiểu được một cách đúng đắn, toàn diện chữ "Tu". Người đứng ở khía cạnh này của chữ "Tu" công kích người đứng ở khía cạnh kia, người cho mình tu như thế này là đúng, kẻ khác bảo như thế là sai. Người này chấp chặt quan niệm thế này là phải, kẻ nọ chấp chặt quan niệm trái ngược lại, cuối cùng không ai biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là chánh, đâu là tà, đâu là hay, đâu là dở.
Những quan niệm sai lầm hay chật hẹp của người đời về chữ "Tu" không thể kể xiết được. Dưới đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một số quan niệm sai lầm hay chật hẹp thông thường nhất, cần đả phá mà thôi. Đại loại chúng ta thường nghe phát biểu những ý kiến sau đây:

1. Trong thời khoa học, văn minh và vật chất này mà tu cái gì?

Người nói như thế là có ý nghĩ rằng, chỉ trong thời đại dã man, lạc hậu người ta mới tu, chứ không ngờ rằng càng văn minh, người ta càng tu và càng tu người ta càng tiến bộ. Cũng có thể những người phát biểu ý kiến như trên, nghĩ lầm rằng thời đại này là thời đại chỉ để dành cho vật chất, là thời đại độc quyền của vật chất chứ tinh thần không có chỗ đứng nữa. Nhưng xét cho đúng, thì không có thời đại nào có thể gọi là văn minh mà không chú trọng đến tinh thần. Vật chất càng phát triển mạnh, thì tinh thần càng phải được đề cao, để giữ cán cân thăng bằng cho xã hội nhân loại, nếu không thì sự sụp đổ không thể tránh khỏi được.

2. Già mới tu, chứ còn trẻ mà tu cái gì?

Những người thốt ra câu nói này đã hiểu lầm chữ "Tu". Họ xem nhà chùa như một nhà dưỡng lão, dành riêng cho ông già, bà cả không còn đủ sức để vật lộn với đời, nhựa sống sắp héo khô, hay mùi đời đã nếm trải, chán chường rồi, không còn thấy có sinh thú nữa. Họ cho rằng tu hành là một cách an hưởng cảnh già trong khi chờ chết, chứ người trẻ trung ai lại đi tu. Còn hạng thanh niên thì phải tranh đấu với đời, để tận hưởng những lạc thú, chứ sao lại lo chuyện tu hành?
Họ không ngờ rằng, người già hay trẻ gì cũng cần phải tu, và sự trẻ trung hăng hái cũng cần cho sự tu hành như cho bao nhiêu việc khác ở đời. Vả lại, chắc gì chúng ta còn có một tuổi già để tu hành hay tử thần đã tàn nhẫn đến gõ cửa ngay khi chúng ta còn ở tuổi hoa niên?

3. Những người tật nguyền, bệnh hoạn, côi cút mới tu, chứ còn khỏe khoắn lành mạnh, làm ăn được mà tu cái gì?

Nói như thế là quan niệm rằng, nhà chùa cũng giống như một bệnh viện, một dưỡng đường, một nhà thương điên hay một nhà tế bần để cho những kẻ bị đời sa thải, vào chùa để nương nhờ tấm thân. Họ không ngờ rằng tu cũng rất cần cho những người khỏe mạnh, có năng lực, có tài ba lỗi lạc, chứ không riêng cho hạng người tật nguyền, yếu đuối, côi cút...

4. Tu là phải xuất gia như chư Tăng, ni, chứ ở tại gia, vợ còn, con đủ mà tu cái gì?

Những người nói như thế là vì đã quan niệm một cách sai lầm rằng, tu là nhiệm vụ của những người thoát trần, lìa tục, dành riêng cho những hạng Tăng, ni là những người chán đời, yếm thế. Họ không hiểu rằng: Tu không phải chỉ có một hình thức là bỏ nhà đi ở chùa, mà chính ở đâu cũng tu được, và cũng không phải chỉ dành riêng cho hạng Tăng, ni mà tất cả mọi người đều cần phải tu.

5. Tu phải ở núi, ở non, ở am, ở cốc, chứ ở chùa cao, Phật lớn, ngay giữa thành thị, đâu có phải là chơn tu?

Người nói như thế, vì tưởng rằng tu là phải xa lánh đời, trốn đời, không còn liên lạc gì với xã hội nữa. Tu như thế là đứng về phương diện tiêu cực, chỉ lo riêng phần mình. Chứ còn tu một cách tích cực, thì phải nhập thế, độ sanh, hoằng truyền chánh pháp.

6. Tu là phải ép xác, ăn chay nằm đất, ăn ngọ, ngủ ngồi... vv, mới là chơn tu?

Nói như thế là hiểu chữ tu một cách phiến diện, hình thức, lấy những hình tướng không quan trọng hay sai lạc mà cho là chính yếu. Phật đâu có dạy tu là phải ép xác? Chính ngài là người đầu tiên bài xích lối tu này nhất. Ăn chay như phái Đại thừa là một hình thức tu đã đành, nhưng không ăn chay, như phái Tiểu thừa, đâu phải là không tu. Ăn ngọ thì tốt, nhưng không ăn ngọ cũng không phải là không tu được. Còn ngồi để tham thiền, niệm Phật thì mới quý, chứ ngồi mà ngủ, thà là nằm ngủ còn khỏe hơn. Luật của Phật đâu có cấm nằm và bắt ngủ ngồi? Nếu ngủ ngồi mà thành Phật được, thì hóa ra những kẻ ngủ gật đều thành Phật cả hay sao?

7. Có người nói: "Những người tuyệt cốc, chỉ ăn hoa quả, khoai, chuối mới là chơn tu?"

Nếu cho người chỉ ăn hoa quả là chơn tu, thì những người ăn cơm là không chơn tu hay sao? Thế thì đức Phật khi còn tại thế, mỗi ngày đều mang bình bát đi khất thực, làm sao thành Phật được? Và tất cả các đệ tử của Ngài, từ Tổ Ca-diếp trở xuống, có một vị nào cử cơm đâu? Vả lại xét cho cùng, ăn cơm hay ăn hoa quả cũng giống nhau cả, vì lúa cũng là một giống quả, cũng là loài thảo mộc. Cử một thứ quả này mà ăn một thứ quả khác, thì cũng chẳng khác gì nhau. Những người làm như hình thức trên, chẳng qua vì thiếu học, không biết nên tu như thế nào, vả lại có tánh lập dị, muốn cho những kẻ hiếu kỳ chú ý, nên mới làm như vậy.

8. Có người nói: "Tu như ông đạo ớt, đạo sả... kia mới thật là chơn tu, vì chỉ độ ớt, ăn muối tiêu, muối sả... chứ tu gì mà còn ăn đồ ngon bổ?"

Những người nói như thế, cũng như những người tu như thế, rõ ràng là không hiểu gì về chữ "Tu" hết. Nếu ăn ớt chẳng hạn là chơn tu, thì những con chim sáo, chim nhồng chắc đã thành Phật cả rồi.

9. Có người nói: "Tu sao còn đau, còn uống thuốc?"

Nói như thế là hiểu lầm đạo Phật với đạo Tiên. Người tu theo đạo Tiên thường phô trương rằng họ có phép thuật trường sanh, dùng sức nội công, luyện thần khí làm cho thân không già, không bệnh. Những điều ấy chúng ta nghe cho biết vậy, chứ chưa có thể chứng thực được. Nhưng theo giáo lý đạo Phật thì thân này là giả tạm, vô thường chỉ tạm dùng trong một thời gian để tu hành, cũng như chiếc thuyền tạm dùng để đưa người qua sông, rốt cuộc rồi cũng phải hư hoại. Mọi sinh vật trên đời đều phải tuân theo luật vô thường: Sanh, già, bệnh, chết. Chính xác thân của đức Phật cũng không vượt ra ngoài bốn trạng thái ấy, huống chi là những người thường như chúng ta?

10. Những người đi khất thực, đầu không đội nón, che dù, chân không đi giày dép, không ngồi ghế, chẳng nằm ván... vv, mới thật là chơn tu.

Về việc tu hành, Phật chế có đến 84.000 pháp môn, mà khất thực chỉ là một trong các hạnh. Nếu chỉ có hành khất là chơn tu, thì còn vô số pháp môn khác không phải là chơn tu hay sao? Còn che dù, đội nón, mang giày, guốc, ngồi ghế nằm ván, Phật đâu có ngăn cấm? Trong 10 giới Sa-di, hai trăm năm mươi giới Tỳ-kheo, năm mươi tám giới Bồ-tát, không có một giới nào Phật cấm che dù, đội nón, mang guốc, ngồi ghế và nằm ván cả. Chỉ trừ khi vào Phật điện hay nghe pháp.

11. Ngoài ra còn có một số người hẹp hòi, chấp chặt pháp môn của mình tu là đúng, còn bao nhiêu pháp môn của người khác là sai.

Người tu pháp môn tịnh độ, họ cho chỉ có mình là theo đúng chánh pháp và tu như thế mới thành Phật được, ngoài ra những người tu theo bao nhiêu pháp môn khác hay làm các Phật sự khác đều cho là lạc đường, là không phải tu.
Người trì giới cho rằng trì giới mới là tu, còn các pháp môn khác đều không có hiệu quả. Người tu thiền chỉ cho có tu thiền mới chứng được Phật quả, còn bao nhiêu pháp môn khác đều vô bổ, chẳng đưa đến đâu cả. Người tu theo hạnh Bồ-tát làm việc lợi tha, từ thiện xã hội,... vv, cho như thế mới là tu, và bài xích các lối tu khác.
Các quan niệm, thái độ trên đều là hiểu phiến diện hẹp hòi, vì chưa hiểu rốt ráo toàn diện chữ "Tu". Tình trạng này, trong Nhiếp Đại Thừa luận có thí dụ, như người mù rờ voi, rờ được phần nào thì cho phần ấy là con voi. Nếu tu chỉ có một pháp môn như họ chấp, thì đức Phật nói Tam tạng kinh điển, Ngũ thừa Phật giáo và 84.000 pháp môn để làm gì?
12. Cuối cùng, có người cho rằng tu sẽ làm cho con người nhu nhược, dễ bị người lấn áp, bóc lột, nếu tất cả dân chúng trong nước đều tu, thì nước sẽ mất.

Nói như thế thì quan niệm người tu hành chẳng khác gì một cục đất, mặc tình cho ai muốn lăn đi đâu thì lăn, bóp méo vo tròn như thế nào cũng được. Thật ra, tu đâu có phải là khiếp nhược, đầu hàng, yếu đuối, mà trái lại là hùng lực, là dõng mãnh, là tinh tấn, không sợ đau, không sợ chết, không sợ hy sinh. Đức Phật Thích-ca đã dám rũ bỏ tất cả để theo chí nguyện của mình, xuất gia tìm đạo, trải bao gian khổ, vượt bao trở ngại, đâu có nhu nhược, có bị ai lấn át được đâu? Đời Lý, đời Trần, mà toàn dân đều theo Phật giáo, có phải là những thời đại yếu hèn đâu? Nước Nhật Bản ngày nay mà phần lớn dân chúng là Phật tử lại là một nước đứng trong hàng ngủ những nước hùng cường nhất thế giới. Tóm lại, tất cả các quan niệm sai lầm hay chật hẹp nói trên, đều do ở chỗ chưa rõ biết một cách đầy đủ, chính xác toàn diện chữ "Tu".
Để quý độc giả có một ý niệm đúng đắn, toàn diện, rõ ràng về vấn đề này, chúng tôi xin lần lượt trình bày ở những chương sau, tất cả những ngành ngọn, từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, trong đường lối tu hành mà chúng tôi đặt dưới một đầu đề chung là "Bản đồ tu Phật".
Với bản đồ này, quý vị độc giả, nhất là độc giả Phật tử sẽ nhìn thấy một cách tổng quát, toàn diện những đường lối tu hành đi đến cõi Phật, và nếu muốn, quý vị sẽ lựa chọn một lối đi thích hợp với mình, nên loạt bài này còn có tên thứ hai là "Chọn đường tu". Hay nếu quý vị đã dấn bước trên một đường lối nào rồi, thì với bản đồ chỉ dẫn này, quý vị cũng có thể định hướng được vị trí mình đang đi, và còn bao xa nữa thì đến đích. Cuối cùng, cũng với bản đồ này, quý vị có thể biết rõ được ai là kẻ lạc lối, ai là kẻ đồng hành với mình, và ai là kẻ mặc dù không cùng đi với một đường, nhưng cuối cùng cũng sẽ đến đích như mình, vì đường lối tu hành đến quả Phật không phải chỉ có một mà rất nhiều, chỉ khác nhau ở chỗ rộng hẹp, gần xa, cao thấp, mau chậm, dễ khó mà thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hien huu nhu that da va dang

Vào ngày 27 tháng 6, 1986, Thiền sư phụ tá Vipassana, ông Graham Gambie qua đời sau khi mang bệnh một thời gian ngắn. Graham là một trong ...