Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

SUY TƯ VỀ VẤN NẠN LOẠI TĂNG RA KHỎI TAM BẢO

Anh Q. N. thân mến,

Bài viết này xem như tôi đặc biệt viết riêng cho anh, nhưng vì phạm vi đề cập của nó có thể gợi sự quan tâm đến nhiều người nên tôi xin được đưa lên blog này để chia sẻ với nhiều bạn đọc khác. Hơn nữa, những email mà anh forward đến tôi cũng đã qua tay nhiều người khác, nên tôi nghĩ đây không phải là chuyện riêng tư cần phải giữ kín.

Thưa anh,
Tôi đã nhận được 3 email từ anh với lời kèm theo khiêm tốn: “Kính xin anh cho một lời khuyên.”
 
Khuyên bảo thì tôi thực sự không dám đâu anh ạ, nhưng vì những điều anh chuyển đến tôi cũng là chuyện liên quan đến Phật pháp, đến sự tu tập của tất cả chúng ta, nên tôi cũng xin mạo muội nói ra đôi điều, mong rằng có thể giải tỏa được ít nhiều nghi ngại nơi anh, nếu có. Nhận thư anh vào sáng nay. Đọc kỹ qua rồi thì chấp bút viết cho anh ngay, cứ xem như là nghĩ sao viết vậy, biết đến đâu thưa đến đó, e rằng cũng không khỏi còn có những chỗ chưa được chỉnh chu, mong anh bỏ quá cho vậy.

Trong 3 email của anh thì có 2 vấn đề chính. Tôi xin phép đề cập đến từng vấn đề một.

Trước hết là chuyện kêu gọi trì chú đại bi để hồi hướng cho cô Nguyễn Thị M. được khỏi bệnh ung thư, kèm theo thư của một bác tên D. A., từ chối tham gia việc này và giải thích về ý nghĩa hộ niệm vãng sinh.

Về việc này, tôi cũng không biết anh nghi ngại chỗ nào, nhưng đã đọc qua sự việc rồi thì tôi có mấy nhận xét như sau, cứ xem như chia sẻ ý riêng với anh thôi vậy.

Khi tôi vào xem trang web có lời kêu gọi trì chú hộ niệm cho cô M. thì đã có 165 người đồng ý đăng ký tham gia trì chú đại bi nhằm hồi hướng cho cô, theo phương thức và thời gian như ban tổ chức có đăng tải cụ thể.

Theo tôi nghĩ thì đây hoàn toàn là một việc nên làm, thể hiện đức từ bi và tâm vị tha của người Phật tử, cũng như đức tin vào những lời dạy của Phật trong Kinh điển. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là mỗi người chúng ta có đủ ngoại duyên và nội lực để tham gia hay không mà thôi. Nếu không tham gia được thì tùy hỷ theo việc làm của những người đã tham gia cũng tốt, vì tất nhiên đây không phải là chuyện bắt buộc, cũng không phải một pháp tu mà tất cả Phật tử đều phải làm theo.

Vì thế, tôi hơi chạnh lòng khi đọc thư của bác D. A. Thật ra, những điều bác nói là rất chính xác, có thể nói là hoàn toàn đúng theo Kinh điển chứ không có gì sai lệch. Bác viết rằng:

Người muốn hộ niệm vãng sanh thì chính người bệnh phải ngộ ra chút đạo. Nghĩa là phải coi cái thân nghiệp này là giả tạm. Khi đau bệnh thì thành tâm cầu được vãng sanh bằng cách niệm Phật cầu giải bỏ báo thân. Tín Nguyện hạnh đầy đủ thì được vãng sanh.
 
Còn những người này họ tha thiết cầu mong hết bệnh. Nghĩa là tham sống sợ chết. Vì quá tham luyến cái thân thì không thể thoát được đâu!
Nói chung, chú không th tham gia cùng h đề cu cho hết bệnh. Vì khuyên họ cầu hết bệnh thì không đúng vi pháp h nim. Người còn tham chấp thân bệnh, nhất định không thể được cảm ứng, khi chết thì phải theo nghiệp thọ báo.

Người quyết buông xả vạn duyên, không sợ chết, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh thì như chư Tổ nói, nếu thân nghiệp mãn thì được vãng sanh Tịnh độ. Nếu thân nghiệp chưa mãn thì tự nhiên được Phật gia trì mà hết bệnh. Ở đây họ không tin đạo lý này thì chú chịu thua!

Thôi việc này tùy theo duyên phần của họ. Ngoài khả năng của chú. Chú không thể tham gia được.

Những điều này quả là đúng thật. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được đầy đủ như thế. Người ta hầu như đa phần ai cũng vậy, khi đối mặt với bệnh tật, đau đớn, nhất là khi có nguy cơ tử vong, thì sự sợ hãi hốt hoảng hay đau khổ, tham sống sợ chết vốn là chuyện rất bình thường. Lời của bác D. A. đúng về lý mà chưa thông về sự; đúng về thể mà chưa hay về dụng.

Vì sao tôi nói như vậy? Đạo Phật đặt nền tảng trên từ bi và trí tuệ. Có từ bi thì mới khởi được tâm yêu thương, càng thương xót nhiều hơn đối với những ai đang đau khổ. Chính vì có từ bi nên chư Phật, Bồ Tát mới thị hiện ở đời để cứu vớt chúng sinh. Nếu chúng sinh không mê muội, khổ đau, không tham sống sợ chết thì đâu cần chư Phật xuất thế? Bởi vậy, người bệnh muốn cầu nguyện cho được khỏi bệnh thì đúng là còn mê muội, nhưng đó là sự mê muội đáng thương hơn đáng trách, và ta càng cần phải đưa tay cứu vớt, hay ít nhất cũng là xoa dịu hoặc an ủi họ, từ đó mới có thể có điều kiện, phương tiện gần gũi rồi dần dần soi rọi ánh sáng Chánh pháp vào tâm thức họ, giúp họ không còn mê muội như trước. Cho dù không được như thế thì cũng cố gắng giúp họ gieo chút duyên lành được đến gần Phật pháp hơn. Được đến mức nào cũng đều là đáng quý cả. Nếu ta thấy họ mê muội mà từ chối quay lưng thì ai sẽ dắt dẫn họ về gần Chánh pháp? Do nơi ý nghĩa này mà Phật đã thuyết phẩm kinh Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chắc hẳn anh và nhiều Phật tử khác cũng đều rất thường tụng đọc.

Phẩm kinh Phổ môn nói rằng, người khổ đau, kẻ bệnh hoạn, người mong cầu con trai, con gái, cho đến những kẻ đang gặp hiểm nạn, lao tù... nếu xưng tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngài đều sẽ theo âm thanh ấy mà cứu giúp cho được toại ý vừa lòng, tai qua nạn khỏi.

Anh thấy không, những người cầu nguyện với Bồ Tát Quán Thế Âm như thế, đều là những người còn si mê cả, vì chưa thấu được lý nhân quả, chưa thấy được lẽ vô thường, còn bám chấp vào những điều hư huyễn của đời sống thế tục. Thế nhưng, Bồ Tát thị hiện đều là vì họ, không phải vì những người đã được giác ngộ. Vì có chúng sinh si mê nên Bồ Tát mới phát đại nguyện cứu khổ, đó đều là do tâm đại từ đại bi muốn phương tiện dẫn dắt họ về với Chánh pháp đó thôi.
Vì thế, nếu nói rằng chúng sinh mê muội không thể cứu vớt mà quay lưng đi thì không đúng tinh thần từ bi của đạo Phật. Mà như thế thì rõ ràng chỉ hiểu đạo Phật qua lý thuyết chứ không thông suốt việc vận dụng chân lý vào cuộc sống. Phân biệt rõ sáng suốt và mê muội là thấu hiểu được cái thể tánh chân thật của thực tại, nhưng quay lưng với chúng sinh si mê thì đó là chưa thấy được cái dụng của thể tánh ấy.

Đến đây, chắc anh đã hiểu rõ ý tôi. Thôi thì bản thân tôi cũng chỉ biết cầu nguyện cho cô M. được nhẹ phần nghiệp báo, thêm chút duyên lành với Phật pháp, để trong cuộc trôi lăn giữa chốn luân hồi này vẫn còn mong có ngày được ánh từ quang của Phật pháp chiếu soi. 

Về vấn đề thứ hai, trình bày trong 2 email anh chuyển sau. Đó là vấn đề được mô tả qua 2 bài viết như là “vấn nạn loại tăng ra khỏi Tăng bảo”“niệm Phật vãng sinh... ...  Chánh pháp hay mạt pháp”.

Bài thứ nhất do một vị tăng hiệu Thích G. T. viết, đã đăng trên phattuvietnam.net (http://www.phattuvietnam.net/diendan/16397.html) vào ngày 21 tháng 9 vừa qua.

Bài thứ hai đăng vào ngày 26 tháng 9, nghĩa là sau đó 5 ngày, (http://www.phattuvietnam.net/diendan/16447.html) ký tên M. G., có lẽ là cư sĩ và có nhắc đến bài viết thứ nhất.

Thưa anh, việc anh quan tâm đến các bài viết này có lẽ cũng là do bức tranh ảm đạm, tăm tối mà các bài viết này đã vẽ nên. Thế nhưng, sau khi đọc kỹ thì tôi thấy sự việc chẳng có gì to tát cả, và thậm chí là sự quan tâm quá đáng của những người viết bài dường như trong một chừng mực nào đó đã làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Tôi cũng hơi lấy làm lạ là hiện có rất nhiều chuyện đáng quan tâm hơn, thực sự quan trọng hơn, nhưng lại thấy rất ít người quan tâm đến. Trong một phần sau của bài này, tôi sẽ quay lại với suy nghĩ đó.

Trước hết, về mối ưu tư của vị thầy Thích G. T. là "Tăng sẽ bị loại trừ ra khỏi Tam bảo", mà nguyên nhân là do một số cư sĩ tuy đã quy y, có niệm Phật nhưng không thừa nhận vai trò của Tăng Ni. Những người này được đề cập đến như là các "ban hộ niệm tự phát", chuyên lo việc hộ niệm cho những người lâm chung, nhưng theo thầy G. T. thì họ không thực hành đúng Chánh pháp, nhất là họ tỏ rõ sự "dị ứng" với chư vị tăng ni. Thầy trình bày vấn đề khá chi tiết thông qua trích lời một người phụ nữ và đến gần kết bài viết thì thầy buông ra một đoạn văn hết sức thống thiết như sau:

... Cá nhân tôi nếu các vị trong BHN mà cùng ngồi xuống cho chúng tôi giáp mặt, chúng tôi lạy các vị vạn lạy, như năm xưa khi thọ giới lớn về tôi lạy bộ kinh Vạn Phật để trả ơn Tam Bảo, trả ơn giới sư đã truyền giới cho tôi tu hành.

Tôi lạy các vị và kêu lên thống thiết rằng: “Các vị đừng bỏ công ăn việc làm, đừng bỏ công việc gia đình, đừng tránh né đưa đón con đi học, đừng xao lãng trách nhiệm làm vợ, làm cha để dành hết thời giờ cho BHN tự phát, để cầu cho người chết được vãng sinh (mà có thật vãng sinh không?) mà đạo pháp thì  lụi tàn, Tăng Bảo không còn ở thế gian. Ngoại đạo tung hoành truyền đạo giữa chốn không người."

Xuất phát từ sự mê muội của một nhóm người – cứ tạm cho là như thế – mà một vị tăng phải thống thiết than van, phải hạ mình nói ra những câu như thế với hàng cư sĩ, theo tôi nghĩ quả thật là không đáng! Như thế thì còn đâu cái phẩm chất cao quý của bậc Như Lai trưởng tử, của bậc Tam giới Đạo sư? Nhất là khi thầy "lạy các vị vạn lạy, như năm xưa khi thọ giới lớn về tôi lạy bộ kinh Vạn Phật để trả ơn Tam Bảo" thì thật là lầm lẫn quá lắm! Sao lại có thể so sánh việc cúi lạy những kẻ mê muội đang làm hại đạo pháp – theo cách nhìn của thầy – với việc lạy Kinh điển để trả ơn Tam bảo? Điều đó liệu nói lên được chút ý nghĩa tích cực gì? Lẽ ra, thầy phải nghĩ cách giáo hóa họ, làm cho họ hiểu đúng về Chánh pháp, đưa họ về đường ngay nẻo chánh, chứ sao lại "lạy các vị vạn lạy" là ý nghĩa gì? Thầy là người tu theo hạnh từ bi của Phật, rèn luyện tuệ giác của Phật, ít nhiều phải sáng suốt hơn mới thấy được sự mê lầm của họ. Sao không dùng ánh sáng trí tuệ phá trừ bóng tối si mê, mà lại... xuống nước van lạy họ? Để họ cảm động mà từ bỏ sự mê lầm được chăng? Có lý nào lại như thế?

Giờ nói qua một vài suy nghĩ của tôi về các nhóm hộ niệm mà thầy G. T. đề cập trong bài viết. Thật ra, cũng không thể nói rằng họ đều là những người sai lầm, sa đọa. Nói một cách tổng quát thì việc làm của họ biểu lộ hiện nay là sai lầm, nhưng nếu ta không hiểu cặn kẽ hơn về họ thì rất khó lòng chuyển hóa hay làm cho họ thay đổi được. Đa số họ đều tin chắc vào pháp môn Tịnh độ nhưng không có một vốn hiểu biết sâu xa về Phật pháp, từ đó dẫn đến hiểu sai, diễn giải sai về ý nghĩa kinh điển, và do đó tất yếu dẫn đến thực hành sai. Nhưng nếu quơ đũa cả nắm mà bảo họ cố tình phá hoại đạo pháp và "... còn đáng lo đáng sợ hơn nhiều so với chuyện cải đạo tín đồ Phật giáo công khai mà các tôn giáo khác đang thực hiện khắp mọi miền đất nước mà mọi người đều nhìn thấy" thì e là không đúng. Họ tin pháp môn Tịnh độ, nhưng việc hiểu sai ý kinh, thực hành sai lệch, trước hết là do sự mê muội của chính bản thân họ, nhưng tiếp đó cũng cần phải xem lại. Khi nói rằng "họ đều có quy y, có pháp danh", vậy tức là họ cũng đã từng quỳ lạy quý thầy để thọ Ngũ giới, nhưng liệu những vị thầy mà họ quy y đã làm được gì cho họ? Đã dạy dỗ, giáo hóa họ như thế nào? Và tại sao họ có thái độ "dị ứng" với tăng ni? Những chuyện này, tôi nghĩ không thể không xem xét đến, vì như trong bài viết cũng thừa nhận là họ không chỉ một, hai người, mà là một số đông đến mức đáng lo ngại.

Sự sai trái của những người này là không có gì để bàn cãi. Nhưng đưa họ ra như một hiện tượng "phá hoại đạo pháp" thì phải xem lại. Công bằng mà nói, họ mới chính là những người đang rất cần được quý tăng ni giáo hóa, và cần phải giáo hóa họ trước hết, phải quan tâm họ hơn cả những Phật tử thuần thành đang thường xuyên về chùa. Còn nếu chư vị tăng ni từ chối trách nhiệm này thì ai sẽ giáo hóa họ?

Bây giờ nói đến việc "vấn nạn loại tăng ra khỏi Tam bảo". Chuyện này theo tôi là một cách đặt vấn đề hoàn toàn vô lý và thậm chí trong đó còn hàm ý xem thường Tam bảo. Vì sao vậy? Một nhóm người si mê lầm lạc, không hiểu Chánh pháp nên đi lạc đường, mà lại có thể đủ sức làm tan rã, sụp đổ Tam bảo, thì liệu đó có còn là Tam bảo nữa chăng? Nếu họ có thể thành công trong việc loại trừ chư Tăng ra khỏi Tam bảo, thì liệu chư tăng có còn là Tăng bảo nữa chăng? Chánh pháp trường tồn do sự đúng thật của chân lý Phật dạy, chứ không phải nhờ vào sức mạnh hay bất kỳ tổ chức nào. Các pháp nạn trong lịch sử đã từng chứng minh, khi chư tăng bị truy sát, giết hại, chùa chiền bị đập phá, kinh điển bị thiêu rụi... nhưng rồi Tam bảo vẫn tồn tại, đạo Phật vẫn tồn tại đến nay đó thôi. Tam bảo uy nghi sừng sững giữa thế gian, đến Ma vương Ba-tuần thần thông quảng đại cũng không thể phá hoại, sao lại có thể suy vi vì một nhóm người mê muội? Đối với tôi, điều này là hoàn toàn vô lý.

Điều đáng lưu ý hơn lại chính là cách đặt vấn đề trong bài viết này. Mượn lời một phụ nữ, thầy G. T nêu lên trường hợp của cư sĩ Đoàn Trung Còn và cư sĩ Mai Thọ Truyền như là những người đã từng "tẩy chay" Tăng bảo, rồi liên kết những người trong các "Ban Hộ niệm tự phát" với 2 vị này. Những điều này hoàn toàn sai sự thật và thật nguy hiểm, vì nó vừa xúc phạm những vị cư sĩ đáng kính đã từng đóng góp rất nhiều cho Phật pháp, lại vừa tạo ra một ấn tượng bất hòa giữa tăng ni và cư sĩ, vốn là điều hoàn toàn không nên có trong đạo Phật.

Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là cây đại thụ trong giới cư sĩ miền Nam, được so sánh với cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám ở miền Trung, đều là những người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo. Còn việc ông có thái độ gì bất kính với chư Tăng, quả thật tôi chưa từng nghe biết! Ngôi chùa Phật học Xá Lợi quả là do ông đứng ra cáng đáng việc xây dựng từ đầu đến cuối, nhưng tên chùa là do Cố Hòa thượng  Thích Khánh Anh đặt cho. Chưa nghe ai nói ông xây chùa này cho giới cư sĩ cả! Anh có thể đọc thêm về vị cư sĩ này tại đây:

http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-86_4-14241_5-50_6-1_17-113_14-1_15-1/


Về cư sĩ Đoàn Trung Còn, vừa là một học giả Phật giáo thuộc thế hệ trước, vừa là một người tận tụy với Phật pháp cho đến tận cuối đời. Đóng góp của ông vô cùng lớn lao, không ai có thể phủ nhận được. Còn việc ông tham gia thành lập Tịnh độ Cư sĩ Việt Nam không có tăng hiện diện trong đó thì cũng là điều tất nhiên, vì như tên gọi đã nói rõ, ông chỉ quy tụ những người cư sĩ tu Tịnh độ vào hội này. Nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là họ tu tập không có chư tăng dẫn dắt. Việc cho rằng ông "vì bất mãn một số các thầy (tăng)" nên mới thành lập Tịnh độ Cư sĩ Việt Nam là điều hoàn toàn vô căn cứ, thậm chí có thể xem là vu cáo người đã khuất. Anh có thể đọc thêm về vị cư sĩ này tại đây:


Còn một sự thật khác có thể chứng minh rằng luận điểm trên là hoàn toàn sai lầm. Đó là chính bản thân cư sĩ Đoàn Trung Còn trong suốt nửa cuối của cuộc đời đã xuất gia thọ giới tỳ-kheo thành một vị tăng nghiêm trì giới luật. Ngay trước khi viết bài này, tôi đã điện thoại nói chuyện với anh Đoàn Trung Việt, con trai của cư sĩ Đoàn Trung Còn, để xác nhận sự thật này. Hiện anh Việt vẫn còn lưu giữ các giấy tờ liên quan đến việc xuất gia của cư sĩ trước đây. Nếu như quả thật có chuyện "đường lối là đối lập hẳn với Tăng Bảo, tìm cách loại Tăng giống như Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Cư Sĩ Mai Thọ Truyền năm xưa" thì làm sao ông lại có chí nguyện xuất gia? Quả là vô lý!

Một điều đáng buồn là trong bài viết của thầy G. T. có quá nhiều điểm không phù hợp với tinh thần Phật pháp. Chẳng hạn, nói về việc chư tăng đến tụng niệm phải có tiền công đức, tiền lễ tạ... thầy viết (qua lời nhân vật phụ nữ trong bài): "Không công đức, không tạ lấy đâu tu sửa chùa chiền, nuôi chúng điệu ăn học, tiếp nối phật pháp tương lai."  
Điều này thật quá sai trái. Phật pháp chưa bao giờ tồn tại và tiếp nối nhờ vào những đồng tiền cúng tạ hay công đức đó. Bậc phước điền của nhân gian, sở dĩ nhận cúng dường là để tạo điều kiện cho người thế gian gieo trồng phước đức (như nghĩa của chữ phước điền – ruộng phước), chứ không phải để dùng tiền ấy duy trì Phật pháp. Chư Tổ xưa kia – và cả hiện nay – nhiều vị không hề tham gia những việc cúng kính, lễ lạt, họ vẫn có thể tu tập thành tựu, hoằng dương Chánh pháp. Còn nói dùng tiền đó để tu sửa chùa chiền thì càng sai lệch. Nhiều ngôi chùa hiện nay đã xây và đang xây, kinh phí đến hàng chục tỷ đồng, Phật tử vẫn cung kính đóng góp đầy đủ, đâu đợi quý thầy phải "gom tiền đi cúng" về để xây?
Và đây là lời của chính vị sư trong bài viết của thầy G. T.
"Chùa xây cất được là từ những đồng tiền hỷ cúng của phật tử khi mời chư tăng đến nhà hộ niệm, hiếu sự, các vị làm thay việc của quý chư tăng hết, phật pháp sẽ không còn tồn tại ở thế gian."
 
Tôi hỏi thật nhé, anh Q, N. có nghĩ điều này là đúng chăng? Chỉ vì một đám cư sĩ lo hết chuyện hộ niệm, hiếu sự mà thầy cho rằng quý chư tăng đã hết chuyện làm, và Phật pháp sẽ không còn tồn tại ở thế gian. Ôi! Sao lại có lý lẽ như thế được? Lẽ nào chư tăng chỉ lo mỗi những việc hộ niệm, hiếu sự thôi sao? Và lẽ nào Phật pháp tồn tại chỉ nhờ chư tăng có làm những việc này?

Theo tôi, chính bởi cách hiểu về chư tăng như thế nên mới nảy sinh cái thảm họa có những người xem thường tăng ni, thiếu cung kính với Tăng bảo. Tất nhiên những người ấy là hoàn toàn sai trái rồi, nhưng bản thân những ai hiểu về vai trò của chư Tăng một cách cạn cợt như trên cũng cần phải xem lại, nếu không thì chính mình sẽ làm mất đi giá trị của Tăng bảo mà không tự biết.

Thật ra, điểm khác biệt quan trọng nhất giữa chư tăng và cư sĩ không phải ở những việc như cất chùa, giảng giải, dịch kinh, viết sách... như thầy G. T. nêu ra. Những việc này vẫn có những cư sĩ làm được và thậm chí có khi còn làm tốt hơn cả chư tăng. Những ngôi chùa lớn xưa kia đều do các vị vua chúa hoặc những người giàu có (cư sĩ) xây dựng, hoàn tất rồi mới thỉnh chư Tăng về an trú. Cư sĩ giảng kinh cho chính quý thầy ngồi nghe thì gần đây có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám mà tôi vừa nhắc ở trên. Lớp Phật học đầu tiên của thế kỷ trước tại chùa Báo Quốc có mời ông đến giảng thường xuyên cho các vị học tăng. (Mỗi khi đi giảng ông đều mang theo kinh, sách trong cặp, bước lên xe ngồi là mở ra xem, cho đến nơi mới gấp sách lại, không bỏ phí dù chỉ một chút thời gian.  Phẩm chất cao quý của ông khiến cho ai đã từng gặp cũng đều mến mộ.)

Việc dịch kinh, viết sách cũng vậy, xưa nay chưa hề có phân biệt tăng hay cư sĩ, tất cả đều có sự đóng góp tích cực cho Đạo pháp. Thế nhưng, tất cả những vị cư sĩ chân chính đều duy trì sự cung kính đối với chư tăng ni, bởi họ luôn hiểu được chỗ khác biệt quan trọng nhất giữa bản thân họ với những người đứng vào hàng Tăng bảo: Đó chính là sự nghiêm trì giới luật và đạo hạnh cao quý. Một vị tăng dù chưa từng xây chùa, giảng kinh, viết sách... nhưng chỉ cần nghiêm trì giới luật, tu tập chân chánh là đã đủ xứng đáng cho hàng cư sĩ quỳ lạy cung kính. Ngược lại, một vị tăng dù có công vận động xây dựng chùa lớn, có tài uyên bác thuyết giảng kinh luận thông suốt, nhưng nếu không sống theo đúng giới luật, không giữ được đạo hạnh, thì bản thân vị ấy đã không xứng đáng đứng trong Tăng đoàn, đã không thể xem là một phần của Tăng bảo. Sự khác biệt giữa chư tăng và cư sĩ cần phải được hiểu như thế.
    
Và ở đây mới chính là chỗ chúng ta cần quan tâm. Chỉ cần chư Tăng nghiêm cẩn tuân theo Giới luật – như Phật từng dạy, phải lấy Giới luật làm thầy – và duy trì được nếp sống đạo hạnh, thì không có gì phải lo âu vì đám cư sĩ mê muội lầm lạc kia, làm sao họ có thể đủ sức mà "loại tăng ra khỏi Tam bảo"? Còn nếu có những vị tăng không ra tăng, giới luật không giữ theo, sống buông thả phóng túng, thì chính những người ấy đã tự loại mình ra khỏi Tăng đoàn, đã không xứng ở trong Tăng bảo, mà dù không ai loại trừ họ, thì một khi nhắm mắt xuôi tay họ cũng không thể lừa dối được luật nhân quả.

Bởi vậy, bổn phận người cư sĩ vẫn là phải luôn cung kính đối với Tam bảo, cho dù có những kẻ lẫn lộn trong Tăng đoàn không giữ được tư cách của một vị tăng, thì đó cũng không phải việc của hàng cư sĩ có thể mang ra phê phán hay bất mãn như lời thầy G. T. đã gán cho các vị Đoàn Trung Còn và Mai Thọ Truyền trong bài viết này. Mà chuyện thầy lo "chư tăng bị loại ra khỏi Tam bảo" lại là chuyện hoàn toàn vô lý và khó hiểu.

Đến đây, có lẽ anh Q. N. cũng đã hiểu hết được ý tôi. Còn bao nhiêu việc khác mà thầy G. T. nêu ra trong bài, cũng như tác giả M. G. nhắc lại và tô đậm thêm trong bài viết sau đó, theo tôi cũng đều là những chuyện tương tự như thế. Lời xưa có nói: "Vàng thật không sợ lửa." Tôi nghĩ câu này có lẽ thích hợp để nêu lên ở đây. Chỉ cần quý tăng ni đều là "vàng thật", thì đám người mê muội kia sẽ chẳng làm được gì ngoài việc tụ họp và lôi kéo những người cũng mê muội như họ. Nhưng nếu chư tăng thể hiện được vai trò giáo hóa của mình, thì tôi tin rằng cũng sẽ có không ít người trong bọn họ sớm quay về đường ngay nẻo chánh.

Giờ tôi xin quay lại với điều mà tôi cho là đáng quan tâm hơn những gì đã nêu ra trong các bài viết này. Đó là một vấn đề cũng liên quan đến Tam bảo. Chúng ta ai cũng biết, Tam bảo khởi đầu từ đức Phật; sau khi đức Phật chuyển Pháp luân thì thế gian có Pháp bảo; sau khi có những người phát nguyện lìa bỏ thế tục, trọn đời đi theo con đường Chánh pháp thì thế gian này có Tăng bảo. Thế thì, có Phật mới có Pháp; có Pháp mới có Tăng, có Tăng rồi mới trọn đủ Tam bảo. Nay chúng ta không cần phải lo "tăng bị loại ra khỏi Tam bảo" như thầy G. T. mà thực sự nên lo cho việc Pháp bảo không được quan tâm lưu truyền, gìn giữ. Có lẽ đã đến lúc chư tăng cần quan tâm nhiều hơn đến việc này, thay vì là để buông xuôi tự phát đến đâu thì đến như trong suốt thời gian qua. Nếu được như vậy, người cư sĩ sẽ có nhiều điều kiện hơn để hiểu đúng Chánh pháp, sẽ giảm thiểu đi những kẻ mê muội lầm đường lạc lối. 

Chánh pháp là phương tiện duy nhất của chư Tăng để hàng phục tà ma ngoại đạo, cũng là để giáo hóa chúng sinh. Nếu Chánh pháp được xiển dương thì có gì phải lo ngại đối với những kẻ mê muội hay đối với ngoại đạo tà giáo?

Đôi lời thô thiển, hy vọng có thể giúp anh giải trừ đôi phần nghi ngại. Tôi thường rất ít khi dành thời gian cho những bài viết như thế này, bởi còn rất nhiều việc khác đang dở dang cần hoàn tất. Tuy nhiên, đã nhận được thư anh với sự quan tâm đúng đắn về Đạo pháp, làm sao tôi có thể không trả lời? Vì thế mới tùy tiện viết ra bài này chỉ trong thời gian ngắn ngủi, nếu còn có những chỗ nào sơ sót mong anh bỏ qua cho.

Thân chúc anh và gia quyến vạn an, tu tập tinh tấn.

Thân kính,
Nguyễn Minh Tiến

Cư sĩ ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988)

TIỂU SỬ
Tỳ Kheo Thích Hồng Tại

Tức ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988)
Nhà Phật Học Miền Nam.

Học giả Đoàn Trung Còn
(1908-1988)
Photos: Bình Anson (2008)
Thật là thiếu sót, nếu chúng ta không đặt cho nhà học Phật Miền Nam Đoàn Trung Còn một chỗ xứng đáng với công đức của ông, mặc dù việc tìm hiểu, sưu tập còn gặp nhiều khó khăn, từ gia đình cũng như đệ tử nối pháp, vẫn chưa công bố những chi tiết để làm sáng tỏ công nghiệp hoằng dương chánh pháp của ông.
Mặc dù vậy, chúng tôi cố gắng ghi chép những gì thu thập được, những thiếu sót, những chi tiết chưa sáng tỏ, mong được nhiều vị đóng góp thêm để bổ sung cho được đầy đủ hơn, để làm thành một tấm gương sáng, cho người học Phật noi theo.
Ông Đoàn Trung Còn sinh năm 1908 tại Thắng Nhì, Vũng Tàu. ông có bằng Thành Chung (Diplomat), rồi đi làm tư chức tại Sàigòn.
Ông bắt đầu viết về đạo Phật, năm 1931 cho xuất bản các sách: Chuyện Phật đời xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành.
Sau đó ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935).
Sau ông thành lập nhà xuất bản lấy tên là Phật Học Tùng Thơ để xuất bản những Kinh, sách Phật Giáo do ông soạn, dịch, còn những Kinh sách do chư Tăng hay cư sĩ khác soạn, dịch ông xuất bản trong Phật Học Thơ Xã. Ông cũng xuất bản những sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.
Ông lập gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được hai người con, một trai, một gái. Bà mất năm 1985.
Ông dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận nhứt, Sàigòn để làm nhà Xuất bản Phật Học Tòng Thơ.
Năm 1955, ông hợp tác cùng với chư Tăng và thân hữu thành lập Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn.
Theo Nội Quy của Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam ghi trong Điều I như sau:
Điều I: (bổ túc khoản I trong Bản Điều Lệ)
Tịnh Độ Tông Việt Nam cũng có thể gọi là Hội Phật Giáo Tịnh Độ Việt Nam, Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, Giáo Hội Tịnh Độ Tông, hoặc vắn tắc là Tịnh Độ Tông.
Bản Điều Lệ của Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam soạn thảo ngày 30-10-1954, Bộ Nội Vụ cho phép Hội hoạt động theo đơn xin thành lập của những vị sau đây:
1. Ông Đoàn Trung Còn, 46 tuổi, sanh ngày 2.11.1908 tại Thắng Nhì (Vũng Tàu), Giám đốc Phật học Tòng thư, 143 đường Dixmude Sàigòn. Ký tên không rõ.
2. Ông Nguyễn Văn Vật, pháp danh Chơn Mỹ, 43 tuổi, sanh năm 1911 tại Chợ lớn, Trụ trì chùa Giác Hải (Phú lâm Chợ Lớn). Ký tên bằng hán tự.
3. Ông Nguyễn Văn Thiệu, Pháp danh Chơn Minh, 44 tuổi sanh năm 1910, tại Tân Hưng (Sa Đéc),  Trụ Trì chùa Giác Chơn 67/B đường Renault, Chợ Lớn. Ký tên bằng hán tự.
4. Ông Lý Trung Hiếu, 60 tuổi, sanh ngày 21.11.1894 tại Trường Thạnh (Cần Thơ), Đốc công Sở công chánh, nhà riêng 262 đường Chasseloup-Laubat, Sàigòn. Ký tên không rõ.
Kiểm nhận để đính kèm nghị định số 8 BNV/CT ngày nay
Saigon ngày 25 tháng 2 năm 1955
T.U.N. Thủ Tướng Chánh Phủ
Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
Ký tên không rõ
(con dấu)
Quốc Gia Việt Nam
Bộ Nội Vụ,
Bộ Trưởng
Sau nầy, năm 1959 ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo Hội Tịnh Độ Tông dời trụ sở về đây hoạt động. Từ năm 1960 đến 1987 chư Hòa Thượng Thích Giác Ý, Hòa Thượng Thích Hồng Ảnh, Thượng Tọa Thích Tuệ Đức đã thay nhau trụ trì chùa Liên Tông, nay là Đại Đức Thích Thiện Huệ.
Trong Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, ông Đoàn Trung Còn giữ chức Trị Sự Trưởng Ban Chấp Sự Trung Ương.
Đầu thập niên 70, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Dầu đất nước trải qua cuộc bễ dâu, ông vẫn âm thầm sáng tác cho đến ngày viên tịch năm 1988. Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín ở Xa Lộ Biên Hòa.
Tỳ kheo Thích Hồng Tại, Trị sự Trưởng Tịnh Độ Tông Việt Nam được hệ phái Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh - Bà Rịa) tôn vinh lên ngôi vị Hòa Thượng sau khi ngài viên tịch.
Có bằng Thành Chung, nên ông Đoàn Trung Còn thông thạo Pháp Văn, với vốn Hán Văn học ở nhà trường ông đã trao dồi thêm nên có thể dịch Kinh Phật và sách Hán văn, ông tự học chữ Phạn, cho nên kinh Phật dịch ra ông còn chua thêm chữ Pháp và chữ Phạn .
Nhiều Kinh sách của ông in đến lần thứ hai và cũng có kinh sách in lần thứ ba như quyển Tăng Đồ Nhà Phật, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Các Kinh sách ông soạn dịch, có bộ Phật học từ điển (3 quyển), chẳng những được tái bản trong nước và cả ở hải ngoại, thật là một công trình quí giá, chứng tỏ ông nghiên cứu nghiêm túc, có phương pháp, hiểu rộng và chuyên sâu giáo lý đạo Phật.
Những kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, xuất bản trong Phật Học Tòng Thơ gồm có:
1. Truyện Phật Thích Ca
2. Du lịch xứ Phật
3. Đạo lý nhà Phật
4. Chuyện Phật đời xưa
5. Văn minh nhà Phật.
6. Triết lý nhà Phật.
7. Lịch sử nhà Phật.
8. Pháp giáo nhà Phật
9. Tăng đồ nhà Phật (1934)
10. Các tông phái đạo Phật.
11. Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
12. Một trăm bài kinh Phật.
13. Na Tiên Tỳ kheo kinh.
14. Mấy thầy tu huyền bí.
15. Tam bảo văn chương.
16. Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
17. Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
18. Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
19. Địa Tạng kinh. Hán Việt.
20. Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
21. Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
22. Qui nguyên trực chỉ.
23. Phật Học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
24. Yếng sáng Á châu
25. Kim cang kinh. Hán Việt
26. Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
27. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
28. Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.
Những kinh, sách, tranh tượng do người khác viết, vẽ xuất bản trong Phật Học Thơ Xã gồm có:
1. Sự tích Phật A Di Đà.
2. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.
3. A Di Đà Kinh (in chung trong Chư Kinh tập yếu)..
4. Kinh Tam Bảo (Di Đà, Hồng danh, Vu lan, Phổ môn, Kim cang)
5. Phật pháp vở lòng.
6. Sách nấu đồ chay.
7. Khuyên tu Tịnh độ.
8. Thành Đạo.
9. Học Phật Chánh pháp. (Sa môn Hiển Tánh) (1942)
10. Quan Âm thị Kính.
11. Nước Ấn độ trước Phật.
12. Quan Âm linh xăm.
13. Tượng Phật A Di Đà.
14. Tượng Phật Thích Ca.
15. Tượng Phật bà Quan Âm.
Những sách Khổng giáo, Hán văn do ông Đoàn Trung Còn soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơ gồm có:
1. Truyện đức Khổng tử
2. Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
3. Hiếu Kinh (Hán Việt).
4. Tam tự Kinh (Hán Việt).
5. Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
6. Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
7. Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
8. Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt, Pháp
9. Học Chữ Hán một mình.
Nhờ những Kinh điển ông soạn dịch từ năm 1931, giúp cho nhiều người hiểu được giáo lý đức Phật, ông góp công không nhỏ trong sự nghiệp canh tân Phật giáo Việt Nam từ thập niên 30 trở về sau nầy. Thiền tông hay Tịnh Độ tông cũng đều là tông phái lớn, lâu đời của Phật giáo Bắc Tông. Cho nên sự nghiệp truyền bá Phật Pháp, xiển dương Tịnh Độ, ông đáng được tôn vinh một Phật tử chân chánh, một Tỳ kheo giới đức.
Soạn ngày 23 tháng 8 năm 2002
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông
(http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-14134_5-50_6-1_17-126_14-1_15-1/)

CƯ SĨ CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN



CƯ SĨ CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN
Cuộc đời tận hiến

Nguyên Hậu

Ở miền Trung, có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám là trụ cột của công cuộc chấn hưng Phật giáo, thì ở miền Nam có cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, một khuôn mặt Phật tử lớn đã cống hiến nhiều công lao trong việc chấn hưng và xây dựng Phật giáo phương Nam.

Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 1.4.1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ theo học trường Sơ học Bến Tre, Trường Trung học Mỹ Tho, sau đó lên Sài Gòn học trường Chasseloup Laubat. Vào khoảng năm 1931 ở Sa Đéc, cư sĩ thường hay đến tham vấn cầu học với HT.Hành Trụ. Cảm phục đức độ và trí tuệ của vị danh tăng, cư sĩ Mai Thọ Truyền xin thọ Tam quy, Ngũ giới, được HT đặt cho pháp danh là Chánh Trí. Sau khi thọ giới, bác Chánh Trí bắt đầu ăn chay trường và đem hết nhiệt thành để phụng sự Chánh pháp. Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau giồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng và vốn kiến thức cao về triết học Đông - Tây. Nhằm góp phần xây dựng Phật giáo vững mạnh, cư sĩ đã kết hợp với một số đạo hữu trí thức có đạo tâm thành lập Hội Phật học Nam Việt (PHNV).

Với cương vị Hội trưởng, cư sĩ Chánh Trí rất quan tâm đến việc kiến tạo cho Hội PHNV một ngôi Tam bảo khang trang để làm nơi thờ tự và đặt văn phòng trung ương của Hội. Đích thân cư sĩ lo liệu mọi thủ tục như xin phép xây dựng, xin phép tổ chức lạc quyên tạo nguồn kinh phí. Sau lễ động thổ khai móng 19 tháng, Hội làm lễ lạc thành rất long trọng vào các ngày 14, 15, 16 tháng Ba năm Mậu Tuất (nhằm ngày 2 đến ngày 4-5-1958) và được HT.Khánh Anh (Pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt đồng thời là chứng minh Đại đạo sư của Hội PHNV) đặt tên chùa Phật học Xá Lợi. Chùa được xây cất trên khoảnh đất rộng 2.500m2, đặc biệt tháp chuông của chùa Xá Lợi với một tỷ lệ cân xứng và những mái cong thanh nhã đã trở thành một biểu tượng đẹp tại TP.Hồ Chí Minh.

Ngôi Phạm vũ Xá Lợi sau khi lạc thành đã gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của Phật giáo nước nhà. Các kỳ Đại hội của Tổng hội PGVN lần III (năm 1959), lần IV (năm 1962) nhất là Đại hội ngày 21-12-1963, đã thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Sau khi Đại hội đại biểu tổ chức tại thủ đô Hà Nội vào tháng 11-1981 đã thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Văn phòng II Hội đồng Trị sự Giáo hội đặt tại chùa Xá Lợi mấy năm liền.

Trong mùa Pháp nạn năm 1963, chùa Xá Lợi là nơi đặt văn phòng của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Tại đây, Ủy ban Liên phái tổ chức các cuộc họp báo công bố 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo và tố cáo trước công luận quốc tế và trong nước ý đồ triệt hạ Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm. Một hình ảnh rất cảm động khi rước Pháp thể của Bồ tát Thích Quảng Đức về quàn tại chùa Xá Lợi hai tuần trước khi làm lễ trà tỳ tại An dưỡng địa Bình Chánh, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền nằm lăn trên đất dưới Pháp thể của Bồ tát từ cổng chính tới cửa giảng đường (ghi theo lời kể của HT.Thích Đức Nghiệp trong khóa hội thảo về Bồ tát Thích Quảng Đức).

Trong đạo, ngoài chức vụ Hội trưởng PHNV từ năm 1955 đến 1973 (năm cư sĩ Chánh Trí quá vãng), cư sĩ còn đảm nhiệm các chức vụ Tổng Thư ký Tổng hội PGVN (từ năm 1955 đến 1958), Phó Hội chủ Tổng hội PGVN từ năm 1959 đến 1963, và có một thời gian ngắn làm Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN.


Trên trường Phật giáo quốc tế, cư sĩ đã đảm trách Phó Chủ tịch Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới trong Đại hội Phật giáo Thế giới kỳ VI năm 1962 tổ chức tại Phnom Penh, Campuchia. Ngoài ra, cư sĩ còn tham dự các Hội nghị Văn hóa Phật giáo tại New Delhi (Ấn Độ) năm 1956, Hội nghị Văn hóa Phật giáo tại Tokyo (Nhật Bản) năm 1958, Hội nghị Phật giáo Thế giới lần VII tại Benarès (Ấn Độ) năm 1964.

Trong những năm thập kỷ1960, khi cư sĩ được chính quyền cũ miền Nam mời giữ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, cư sĩ đã đẩy mạnh hoạt động của Ủy ban Điển chế Văn tự, thiết lập chi nhánh bảo tồn cổ tích Huế, lập Ủy ban Dịch thuật do chính cư sĩ làm Chủ tịch. Thành tựu nổi bật trong vai trò Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, cư sĩ đã tác động chính quyền thời đó chấp thuận xây cất Thư viện Quốc gia tại Sài Gòn (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, ở đường Lý Tự Trọng). Thư viện này do kiến trúc sư Phật tử Nguyễn Hữu Thiện chủ trì thiết kế, khởi công năm 1965, hoàn tất năm 1970, là một công trình kiến trúc hiện đại được xây dựng trên khoảnh đất rộng mà tại đây vào thời thực dân Pháp đã dùng để xây cất nhà khám lớn.

Để truyền bá giáo lý Phật đà và chuyển tải thông tin hoạt động Phật sự của Hội PHNV, cư sĩ đã chủ trương thành lập tạp chí Từ Quang do cư sĩ làm chủ nhiệm: Số báo đầu tiên phát hành vào năm 1951, đến ngày cư sĩ mất, đã ra được 242 số, đến cuối năm 1974 thì tạp chí Từ Quang đình bản. Tờ Từ Quang hoạt động 23 năm là một tờ báo Phật giáo có nhiều độc giả và có tuổi thọ lâu nhất. Trong tạp chí, cư sĩ có dành riêng cho GĐPT để đăng các hoạt động gọi là "Trang Gia đình".

Trên lĩnh vực trước tác biên soạn, cư sĩ đã xuất bản các tác phẩm: Tâm và tánh; Lược sử Phật giáo Việt Nam; Ý nghĩa Niết bàn; Một đời sống vị tha; Tâm kinh Việt giải; Pháp Hoa Huyền nghĩa; Địa Tạng Mật nghĩa. Ngoài ra, còn một số tác phẩm chưa xuất bản như: Truyền tâm Pháp yếu; Tây du ký; Hư Vân lão Hòa thượng; Kinh Vô lượng thọ; Kinh Quán Vô lượng thọ; Mười lăm ngày ở Nhật; Vòng quanh Thế giới; Phật giáo; Đạo đời; Khảo cứu về Tịnh độ tông; Mật tông và Kinh Lăng Nghiêm đang viết dở.

Ngày 15-4-1973, cư sĩ Chánh Trí chủ trì Đại hội các tỉnh hội thuộc PHNV. Lúc 8 giờ 15 phút ngày 17-4-1973 (rằm tháng Ba năm Quý Sửu), cư sĩ Chánh Trí thanh thản ra đi.

Có một điểm trùng hợp lạ là 15 năm trước cũng vào ngày rằm tháng Ba năm Mậu Tuất (1958), cư sĩ tổ chức khánh thành chùa Phật học Xá Lợi.Cư sĩ Chánh Trí đã về với cõi Phật nhưng cuộc đời tận tụy phụng sự Chánh pháp và những cống hiến của cư sĩ thật đáng trân trọng và tồn tại mãi trong lòng GHPGVN.

Nguyên Hậu
(nguồn Thư viện Hoa Sen - http://thuvienhoasen.org)

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

138 triệu phú Mỹ xuống đường đòi đóng thêm thuế

138 triệu phú Mỹ đã kéo đến Đồi Capitol để đòi quốc hội đánh thêm thuế thu nhập của họ... “vì lợi ích quốc gia”.
Các triệu phú tập trung ở Đồi Capitol để yêu cầu Quốc hội Mỹ đánh thêm thuế đối với giới nhà giàu - Ảnh: Getty Images
Các triệu phú tập trung ở Đồi Capitol để yêu cầu Quốc hội Mỹ đánh thêm thuế đối với giới nhà giàu - Ảnh: Getty Images.
“Hãy hành động đúng”, “Hãy tăng thuế của chúng tôi”, đó là thông điệp mà những triệu phú Mỹ này gửi đến Tổng thống Barack Obama và các nhà lãnh đạo Quốc hội Mỹ vào ngày 16-11 (theo giờ Mỹ). Các triệu phú này nhấn mạnh họ đã được hưởng lợi quá lâu từ luật thuế “quá ưu ái” mà nước Mỹ dành cho họ lâu nay, giờ đây muốn các triệu phú khác cũng cần làm như họ là nộp thêm thuế cho ngân khố quốc gia.
“Chúng tôi muốn đóng thêm thuế. Nếu may mắn bạn kiếm được hơn 1 triệu USD một năm, bạn phải đóng thêm thuế” - tỉ phú California Doug Edwards, cựu giám đốc marketing của Google, kêu gọi.
Theo CNN, các triệu phú này muốn quốc hội bãi bỏ luật cắt giảm thuế đối với người giàu vốn đã tồn tại từ thời tổng thống George W. Bush, một luật thuế mà dân chúng Mỹ đã quá bức xúc khi mô tả nó là “đã quá nuông chiều” tầng lớp giàu có ở Mỹ. Họ cũng kêu gọi các nghị sĩ từ chối bất cứ yêu cầu không tăng thuế nào mà siêu ủy ban 12 thành viên của lưỡng viện sẽ đưa ra. Theo New York Times, siêu ủy ban này còn thời gian từ nay đến trước ngày 23-11 để xem xét và quyết định: hoặc cắt giảm thâm hụt ngân sách 1.200 tỉ USD trong 10 năm tới hoặc chính phủ sẽ có nguy cơ rơi vào khủng hoảng khi mất khả năng chi trả.
“Nếu đạo luật của siêu ủy ban là không tăng thuế đối với chúng tôi thì chúng tôi sẽ yêu cầu những người dân Mỹ quanh chúng tôi tẩy chay đạo luật này” - Eric Schoenberg, phó giáo sư của Trường kinh doanh Columbia ở New Jersey, cảnh báo.
Hội các triệu phú yêu nước được hình thành từ năm 2010 với mục tiêu thúc đẩy Quốc hội Mỹ bãi bỏ luật cắt giảm thuế đối với nhà giàu Mỹ đã tồn tại từ thời tổng thống George W. Bush. 138 triệu phú tham gia hội đã gửi thư thỉnh nguyện đến siêu ủy ban và Quốc hội Mỹ. Song thư của họ đã vấp phải sự im lặng đáng sợ của phe Cộng hòa, vốn đang kiểm soát hạ viện và chưa bao giờ đồng ý đánh thuế cao hơn đối với giới nhà giàu Mỹ, vì cho rằng việc tăng thuế lên người giàu sẽ thủ tiêu kế hoạch tạo việc làm của nước Mỹ, một sự ngụy biện đã bị Hội các triệu phú yêu nước phản ứng gay gắt.
Tháng 10-2011, tỉ phú Mỹ Warren Buffett đã khơi mào cho việc đánh thêm thuế đối với giới nhà giàu Mỹ khi ông công khai nguồn thu nhập và mức thuế của mình để chứng minh giới nhà giàu hiện đang nộp thuế rất ít. AFP cho biết trong thư gửi cho một thành viên Quốc hội Mỹ, ông W. Buffet cho biết thu nhập năm 2010 của mình là 62,8 triệu USD, trong đó thu nhập chịu thuế 39,8 triệu USD sau khi đã giảm trừ. Mức thuế mà nhà tỉ phú này đã nộp tổng cộng 6,9 triệu USD, tức 17,3%.
Ông cho rằng mức thuế này rất thấp, thậm chí còn thấp hơn so với một nhân viên thư ký của ông! “Rất hữu ích cho việc đối thoại về việc cải cách chính sách thuế, nếu có nhiều người cực giàu cũng công khai mức thuế của họ. Rõ ràng có rất nhiều tỉ phú ở Mỹ nộp thuế còn thấp hơn cả mức thuế của tôi, việc có được hóa đơn thuế của họ có thể hữu dụng trong vấn đề hoạch định chính sách thuế công bằng - ông W.Buffett nhấn mạnh.
Năm 2008, nước Mỹ có 400 tỉ phú nhưng họ chỉ nộp 21,4% thuế thu nhập với tổng số tiền 227 triệu USD. Ông W.Buffett cho rằng người Mỹ có thu nhập cao hơn 1 triệu USD cần phải đóng thuế cao hơn. “Các bạn tôi và tôi đã được một quốc hội nâng niu chiều chuộng đủ lâu rồi. Giờ đã đến lúc chính phủ cần kêu gọi các tầng lớp giàu có hi sinh một cách công bằng” - ông Buffet nhấn mạnh.
Theo Mỹ Loan
Tuổi trẻ

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Vì sao tôi viết blog?


Bước vào độ tuổi "tri thiên mệnh", hay nói theo ngôn ngữ bây giờ là U50, có lẽ chẳng mấy ai còn ham thích những chuyện tán gẫu qua mạng hay viết lách linh tinh chỉ để giải buồn... Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy cần phải mở ra blog này và một số blog khác để làm nơi chia sẻ tâm tình cùng bạn đọc.
Chỉ riêng trong vài năm gần đây, số độc giả vào xem trang Rộng mở tâm hồn đã tăng vọt, từ vài trăm người mỗi ngày đã lên đến hàng ngàn người... Theo báo cáo của Google Analatics thì 75% trong số đó là khách mới ghé thăm và 25% là khách thường xuyên. Như vậy, ít nhất mỗi tháng cũng có đến hơn vài chục ngàn độc giả xem trang này, tạo thành một cộng đồng không nhỏ những người đồng cảm với nội dung đăng tải trên Rộng mở tâm hồn.
Có thể nói, những ai đã ghé thăm và đọc sách hoặc tra cứu tư liệu trên Rộng mở tâm hồn đều là những người ít nhiều có mối quan tâm đến cuộc sống tinh thần. Vì thế, chúng ta hoàn toàn có thể xem nhau như những người quen biết. Từ thực tế đó, tôi nghĩ là cần tạo ra một điều kiện để chia sẻ tâm tình giữa những người đã có duyên may gặp gỡ và quen biết nhau qua Rộng mở tâm hồn.
Những blog được tôi mở ra đây bao gồm các phiên bản Google, Yahoo!, WordPress, MySpace và Go.vn đều nhằm mục đích đó. Ở đây, tôi sẽ chia sẻ với độc giả những tâm tình thân mật, những điều mà tôi chưa hoặc sẽ không đăng tải trên Rộng mở tâm hồn, chẳng hạn như những cảm xúc bất chợt, những buồn vui trong cuộc sống đời thường, những bài viết chưa chính thức xuất bản, hay thỉnh thoảng là một vài mẩu chuyện vui vui đã từng xảy đến với tôi trong cuộc đời cầm bút...
Vì thế, có thể nói một cách nôm na rằng, khi quý vị - hay các bạn ghé thăm Rộng mở tâm hồn, thì đó là các bạn đến với nơi làm việc, công sở, hay chí ít cũng là phòng tiếp khách chính thức của tôi, với những sự cẩn trọng và nghiêm túc, chọn lọc cần thiết phải có; ngược lại, khi các bạn ghé thăm các blog này, thì đó là các bạn đến thăm nhà riêng của tôi với tư cách những người bạn tâm tình, với tất cả những gì chân chất, mộc mạc mà tôi có thể bộc lộ một cách thoải mái trong đời sống thường nhật, cả những điều tốt cũng như chưa tốt, nhưng đó là những gì thật có của bản thân tôi... không ngại chê bai hay quở trách, bởi đây là không gian sống của sự riêng tư và thân mật, và tôi đã sẵn lòng chia sẻ cùng các bạn...
Trên tinh thần cởi mở đó, tôi cũng sẽ đăng tải nơi đây những bài viết mà tôi thấy thích, của bạn bè hay của bất cứ ai mà tôi tình cờ gặp được... Đó là điều mà tôi không làm với Rộng mở tâm hồn, vì tính chất nghiêm túc của một website Phật học và vì sự tôn trọng tất cả quý độc giả. Trên các blog này thì khác. Bài viết có thể đưa lên và xóa đi bất kỳ lúc nào, như những đề tài trao đổi chuyện trò trong lúc "trà dư tửu hậu", chẳng có gì phải ngại ngần hay dè dặt. Tôi tin là tất cả các bạn đều hiểu được điều đó và cũng chỉ đọc những bài viết nơi đây như những chia sẻ tâm tình chứ không phải những nguồn tư liệu chính thức phục vụ tham khảo... Như vậy, các bạn cũng sẽ thoải mái hơn nhiều khi muốn trao đổi, bày tỏ một cảm nhận, một suy nghĩ... nào đó, dù là về những bài viết của tôi hay về những gì mắt thấy tai nghe trong cuộc sống... hoàn toàn thân mật và cởi mở.
Hãy viết và đăng lên thoải mái những cảm nghĩ của các bạn. Tôi hứa sẽ đọc và chia sẻ tất cả cùng các bạn!
Thân mến,
Nguyên Minh

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

Ba câu chuyện về triết lý sống của Steve Jobs






BA CÂU CHUYỆN VỀ TRIẾT LÝ SỐNG CỦA STEVE JOBS
(*)
Khải Thiên (Thích Tâm Thiện)

LTS. Steve Jobs được thế giới ca ngợi là thiên tài kỹ thuật, nhà phát minh vĩ đại, một doanh nhân tài ba... Ẩn dưới những bề nổi đó, Steve Jobs là một Phật tử, thực hành thiền định từ thuở thanh niên. Là người sở hữu tài sản rất lớn, nhưng ông luôn sống đơn giản, thiểu dục tri túc, ăn chay. Steve Jobs từng bộc bạch: “Tâm vắng lặng là chìa khóa của mọi sáng tạo”. Ngày Steve Jobs tạm biệt thế giới này, cả thế giới thương tiếc ông, dành những lời tốt đẹp nhất để nói về Steve Jobs.
Nhân ngày Doanh nhân Việt Nam, 13-10, Câu chuyện trong tuần kỳ này dành nói về những triết lý sống đã hướng đạo cuộc đời Steve Jobs. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả bài viết của thầy Khải Thiên (Thích Tâm Thiện), sáng lập tu viện Cát Trắng và Cát Sơn, Florida, Hoa Kỳ.
Cuộc đời Steve Jobs - sống vì cái đẹp, vì tình yêu và vì lý tưởng
Người viết bài này chẳng liên hệ gì với Steve Jobs trong mọi lĩnh vực. Mối liên hệ duy nhất với ông ta đơn giản chỉ là một chiếc máy tính Macbook Air mới vừa mua chưa đầy vài tháng... Bao nhiêu niềm vui vì tiện ích kỳ vĩ của chiếc máy tính này trong thoáng chốc đã nhuốm màu u buồn khi hay tin người sáng tạo ra nó đã vĩnh viễn ra đi!
Càng ngậm ngùi hơn khi biết rằng người ấy đã nói về sự ra đi của mình 5 năm trước qua bài thuyết trình nhân lễ tốt nghiệp tại một đại học danh giá bậc nhất thế giới, Stanford University, cũng là nơi tràn đầy kỷ niệm của tác giả. Bài viết như một lời tri ân... không phải vì tôn vinh sự lên ngôi của những chiếc máy tính cực mỏng, iPad, iPhone... mà vì xúc động trước bức thông điệp về triết lý sống “rất Phật” đến bất ngờ của người sáng lập Apple.
Thông điệp ấy đang truyền cảm hứng về một đời sống với lý tưởng cao đẹp đến khắp hành tinh này, nhất là đối với các bạn thanh thiếu niên, những người vốn đang sống vì cái đẹp, vì tình yêu, và vì lý tưởng. Dưới đây là ba câu chuyện và triết lý sống của Steve Jobs đã truyền đạt cho các bạn trẻ tại Đại học Stanford, Polo Alto.
Định nghiệp như những dấu chấm...
Câu chuyện đầu tiên mà Steve Jobs giới thiệu trong diễn văn của mình đó là việc bỏ học nửa chừng của ông ta. Nghe rất cảm động. Ông ta bỏ học không phải vì lười biếng mà vì cảm thấy buồn và xấu hổ khi phải tiêu quá nhiều tiền để dành cả đời của bố mẹ nuôi trong khi bản thân ông lại không thực sự cảm nhận được những điều mà ông cho là có giá trị thật sự. Ông đã quyết định từ giã ngôi trường chỉ sau sáu tháng theo học. Tuy nhiên, môn học viết chữ đẹp (calligraphy) đã lôi kéo sự quan tâm của ông. Ông đã theo học những lớp thư pháp mà ông không hề nghĩ rằng sau này ông đã áp dụng chúng vào trong các mẫu thiết kế của Apple.
Trong thời điểm của những quyết định khó khăn ở tuổi học sinh, Steve Jobs đã chọn lòng hiếu kính với cha mẹ và yêu thích cái đẹp làm động lực dắt dẫn cuộc sống của mình. Nhìn lại những kinh nghiệm thời thơ ấu, Steve Jobs đã khuyên các bạn trẻ trong lễ tốt nghiệp của họ rằng, “... Bạn không thể nối kết những dấu chấm khi nhìn về phía trước; bạn chỉ có thể nối kết chúng khi nhìn lại đằng sau. Cho nên bạn phải tin tưởng rằng những dấu chấm đó thế nào rồi cũng sẽ nối kết với tương lai của bạn bằng cách này hay cách khác. Bạn hãy tin tưởng vào điều gì đó ở chính mình: bản năng, định mệnh, cuộc sống, nghiệp lực, vân vân. Lối tiếp cận này chưa bao giờ làm cho tôi thất vọng, và nó đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong cuộc sống của tôi”. (... You can’t connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something - your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life).
Mười năm sau, khi hồi tưởng lại, Steve Jobs đã nhận ra rằng sự thành công của ông được quyết định bởi những yếu tố quan trọng đó là: ông đã nhìn đời bằng chính đôi mắt của mình; ông đã nói với đời bằng chính tiếng nói từ nội tâm của mình, và ông đã sống giữa đời bằng tình yêu cái đẹp sâu thẳm đến từ trái tim của chính mình. Bạn thử nghĩ đến một chàng thanh niên vừa từ bỏ một con đường đại học danh giá và tham dự vào những lớp học viết chữ đẹp nghe có vẻ viển vông và rõ ràng chẳng thực tế chút nào! Nhưng Chính Steve Jobs, khi nhìn lại, đã khẳng định, “Nó thật là đẹp, thật kỳ vĩ, và tinh tế một cách điệu nghệ trong một cách thức mà khoa học không làm sao nắm bắt được, và tôi đã thấy nó quả thực là quyến rũ.
Tuy nhiên, những điều này thậm chí không hề có chút hy vọng nào đến những ứng dụng thực tế trong đời sống của tôi. Nhưng mười năm sau, khi chúng tôi thiết kế chiếc máy tính Macintosh đầu tiên, tất cả đã trở lại với tôi”.(It was beautiful, historical, artistically subtle in a way that science can’t capture, and I found it fascinating. None of this had even a hope of any practical application in my life. But ten years later, when we were designing the first Macintosh computer, it all came back to me.)
Thật vậy, tâm sự của ông là những kinh nghiệm sống quý giá vô bờ. Câu chuyện đầu tiên mà Steve Jobs đã chia sẻ với chúng ta đó chính là những lời khuyên chân tình cho những ai đang bước vào ngưỡng của của cuộc đời: Hãy để tâm chiêm ngưỡng cái đẹp, dù rất bình thường, ngay cả trong tình huống tồi tệ nhất, vì chính nó sẽ đem lại sự tươi mát để nuôi dưỡng cuộc sống. Và hãy để lòng hiếu kính với cha mẹ, sự quan tâm đến nỗi khó nhọc của những người chung quanh, và lòng yêu thích cái đẹp dắt dẫn bạn trước những quyết định khó khăn nhất. Rõ ràng, đây là một quan điểm, một thái độ sống rất vị tha bên cạnh tình yêu tha thiết đối với cái đẹp.
Steve Jobs thực tập thiền từ thuở thanh niên, ở độ tuổi thường
chẳng mấy ai quan tâm tới vấn đề sinh, lão, bệnh, tử...
Nhẹ nhàng trong sự thành, bại...
Câu chuyện thứ hai cũng thật là cảm động. Nó nói rõ về ý nghĩa của tình yêu và sự mất mát. Trong căn nhà đậu xe của bố mẹ nuôi, Steve Jobs và người bạn đã lần đầu tiên thành lập Hãng Apple. Lúc ấy ông chỉ vừa 20 tuổi. Đến 10 năm sau, Công ty Apple trong căn nhà để xe của ông đã phát triển thành một đại công ty với tổng trị giá hai tỷ đô la và hơn 4.000 nhân viên làm việc. Nhưng rồi, trong lúc đang ở đỉnh cao của sự thành đạt, lúc ông vừa 30 tuổi, ông đã bị buộc thôi việc vì bất đồng quan điểm về tầm nhìn tương lai với người mà ông đã thuê làm điều hành. Ông phải ra đi vì toàn ban điều hành đứng về phía người ấy.
Ông đã thực sự đau khổ vì thất bại này. Nhưng từ trong đáy thẳm của con tim, ông ta đã nhận ra một phép lạ, đấy là, ông vẫn chưa mất tình yêu đối với công việc của mình. Thế là ông đã khởi sự thành lập một công ty mới là NeXT và tiếp sau đó là Công ty Pixar gắn liền với người phụ nữ, mà sau này trở thành vợ của ông. Điều kỳ thú là chẳng bao lâu sau sự thành đạt của NeXT, chính Apple đã mua lại Công ty NeXT, một công ty đã tạo ra những sản phẩm then chốt cho sự phục hưng của Apple như hiện nay. Thế là Steve Jobs đã trở lại với Apple.
Về sau ông đã phát biểu rằng, “Bị thôi việc ở một công ty do chính mình sáng lập quả là điều tốt đẹp nhất đã đến với tôi. Cái nặng nhọc của thành công được thay thế bằng cái nhẹ nhàng trong trạng thái của người mới khởi sự, ít có bám chắc vào bất cứ cái gì. Nó đã cởi trói cho tôi đi vào một giai đoạn sáng tạo nhất của cuộc đời”. (... Getting fired from Apple was the best thing that could have ever happened to me. The heaviness of being successful was replaced by the lightness of being a beginner again, less sure about everything. It freed me to enter one of the most creative periods of my life).
Những gì Steve Jobs nói quả thật là chẳng khác gì giọng điệu của một thiền sư chính thống. Vâng, ông đã nói với chúng ta bằng sự kiện, chứ không phải bằng ngôn ngữ rằng: thất bại không phải là điều đáng sợ mà đánh mất tình yêu vào cuộc sống mới là điều đáng sợ! Trong những lúc thất bại và não nề như thế, ông đã bám lấy tình yêu vào công việc thay vì sống với phiền muộn khổ đau hay tự đồng hóa mình với những cảm giác buồn vui, thương ghét... Là một người Phật tử, Steve Jobs đã rất tinh tế khi sống lời Đức Phật dạy bằng cách cố vượt ra khỏi sự bức bách của tám nhân duyên ám ảnh trần thế - được, mất vui, buồn, khen chê, danh vọng và không danh vọng - để khơi dậy tình yêu và lý tưởng của mình. (Xem Kinh Anguttara Nikaya AN 8.6).
Nếu bạn cứ tiếp tục chạy theo tám nhân duyên này, cho dù bạn được phép sống thêm một trăm năm nữa thì bạn vẫn mải miết trong phập phồng, đau khổ. Vì chân lý của cuộc sống là sự thay đổi không ngừng. Chỉ có cách, hãy tự mình vượt lên trên các nhân duyên đối đãi này và an trú sâu xa trong tĩnh lặng, bạn mới có thể sáng tạo và làm mới cuộc sống của chính mình. Sống như Steve Jobs, tĩnh tâm trước thành hay bại, chắc chắn bạn sẽ được an bình, hạnh phúc.
Những thông điệp trong bài nói chuyện của Steve Jobs tại ĐH Standford
đã thực sự chạm vào trái tim của nhiều người, những triết lý sống "rất Phật"
Quán niệm về vô thường (sự chết) để sống tốt đẹp hơn...
Câu chuyện thứ ba đã khép lại cuộc đời trần thế của Steve Jobs. Và lạ lùng thay, đây lại là một bài giảng về vô thường, về cái chết cho hàng ngàn sinh viên trong ngày lễ ra trường tại Đại học Stanford. Tất nhiên bài thuyết trình trong một bối cảnh quan trọng như thế được phô diễn trên văn bản với một quan điểm sống rõ ràng chứ không phải là một cảm hứng ngẫu nhiên. Steve Jobs đã giảng về vô thường như thế nào?
Ông bắt đầu câu chuyện: “Mỗi buổi sáng khi soi gương tôi đều hỏi chính tôi rằng “Nếu như hôm nay là ngày cuối cùng của đời tôi, thì tôi có muốn làm những gì mà tôi sắp sửa làm hay không?”. Nếu như câu trả lời là ‘Không’ suốt nhiều ngày như vậy, thì tôi biết rằng tôi phải thay đổi một điều gì đó”. (I have looked in the mirror every morning and asked myself: “If today were the last day of my life, would I want to do what I am about to do today?”. And whenever the answer has been “No” for too many days in a row, I know I need to change something).
Một lối sống cẩn thận và có ý thức từng ngày, từng giờ như thế xuất phát từ căn bệnh ung thư tụy tạng (lá lách) mà ông đang cưu mang. Chính căn bệnh của ông cũng đã giúp ông phần nào tỏ ngộ chân lý vô thường. Nhưng căn bệnh đó không giúp ông tìm đến Phật giáo. Vì Steve Jobs đã đến với Phật giáo ở ngay vào độ tuổi thanh xuân, ở một lứa tuổi mà hầu như chẳng ai bận tâm đến chuyện sinh lão bệnh tử.
Mặc dù phải đối diện với bệnh tật nhưng tâm ông đã không hề chùng xuống mà trái lại nó lại sáng suốt và mạnh mẽ hơn bao giờ. Ông nhấn mạnh: “Quán niệm rằng nay mai tôi sẽ chết là một công cụ quan trọng nhất mà tôi đã đương đầu để có thể giúp tôi quyết định những lựa chọn lớn lao. Bởi vì hầu như tất cả mọi thứ - lòng mong đợi từ bên ngoài, niềm kiêu hãnh, nỗi sợ hãi về sự thất bại hay bẽ bàng - những điều này sẽ bị rơi rụng trước cái chết, chỉ còn lại những gì thật sự quan trọng.
Ghi nhớ rằng bạn sẽ phải chết là cách tốt nhất mà tôi biết để có thể tránh được cạm bẫy của ý tưởng rằng bạn có cái gì đó để mất!” (Remembering that I’ll be dead soon is the most important tool I’ve ever encountered to help me make the big choices in life. Because almost everything - all external expectations, all pride, all fear of embarrassment or failure – these things just fall away in the face of death, leaving only what is truly important. Remembering that you are going to die is the best way I know to avoid the trap of thinking you have something to lose).
Dường như Steve Jobs đã rất tâm đắc pháp môn quán niệm về sự chết. Một trong những pháp môn quán niệm mà Đức Phật đã giảng dạy trong mười pháp tùy niệm đó chính là niệm Chết (niệm diệt). Câu chuyện của Steve Jobs dường như vô tình cũng đã mang theo bóng dáng của cô bé quay tơ 16 tuổi, cư dân làng Alavi, được ghi lại trong chuyện tích Kinh Pháp Cú. Cô bé làm nghề quay tơ cũng đã thành tựu về mặt tâm linh nhờ vào pháp niệm này; và cũng đã từ giã thế giới rất sớm...
Quán niệm về cái chết để sống tốt đẹp hơn...
Thế nhưng có lẽ Steve Jobs đã cảm nhận về một dự báo rất gần khi ông ta phát biểu bằng một ngôn ngữ bộc trực và mãnh liệt rằng, “Không ai muốn chết cả. Thậm chí người muốn lên thiên đàng cũng không muốn chết để đến đó. Tuy nhiên, chết là điểm đến chung cho tất cả chúng ta. Chưa bao giờ có ai trốn thoát nó được. Và rằng, rất có thể Chết là một tạo phẩm tốt đẹp của đời sống. Nó là điểm thay đổi cuộc sống. Nó dọn sạch cái cũ và mở đường cho cái mới. Ngay bây giờ, cái mới là bạn, nhưng rồi ngày nào đó, không mấy lâu đâu, bạn sẽ từ từ trở thành cái cũ, và sẽ bị dọn sạch. Xin lỗi, vấn đề trở nên quá bi thương, nhưng nó là sự thật”. (No one wants to die. Even people who want to go to heaven don’t want to die to get there. And yet death is the destination we all share. No one has ever escaped it. And that is as it should be, because Death is very likely the single best invention of Life. It is Life’s change agent. It clears out the old to make way for the new. Right now the new is you, but someday not too long from now, you will gradually become the old and be cleared away. Sorry to be so dramatic, but it is quite true).
Lối chỉ thẳng vào sự thật của cuộc sống biến chuyển vô thường rõ ràng nghe có vẻ ảm đạm và u buồn thật đấy! Nhưng đó không phải là một quan điểm bi quan mà là sự thật cho dù bạn muốn nói ra hay là không. Nên nhớ rằng, quán niệm về chết không phải để chết; quán niệm về chết là để sống tốt đẹp hơn và làm cho chính cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn trong mọi lĩnh vực và giá trị của nó.
Điều này được khẳng định khi Steve Jobs đánh giá về kẻ đồng hành của mình: “Vấn đề duy nhất của Hãng Microsoft là họ không có cái cảm thức thẩm mỹ. Họ tuyệt nhiên không có cảm thức thẩm mỹ. Tôi không nói điều đó theo lối hẹp, mà tôi nói điều đó trong một phương diện lớn lao, trong ý thức rằng họ không nghĩ đến những ý niệm ban sơ, và họ không đem nhiều yếu tố văn hóa vào trong những sản phẩm của họ”. (“The only problem with Microsoft is they just have no taste. They have absolutely no taste. And I don’t mean that in a small way, I mean that in a big way, in the sense that they don’t think of original ideas, and they don’t bring much culture into their products.”-PBS Documentary, Triumph of the Nerds, 1996). Lời bình phẩm này cho thấy Steve Jobs quan tâm đến đời sống thẩm mỹ như thế nào và dĩ nhiên nó cũng lôi kéo chúng ta về với triết lý của những dấu chấm và nét chữ đẹp mà ông đã kể với chúng ta trong câu chuyện ban đầu.
Quán niệm về Chết theo tinh thần Phật giáo mà Steve ứng dụng vào đời sống của mình hẳn không hề mang dấu ấn bi quan nào hết. Trái lại, nó mở ra một con đường thênh thang với biết bao cơ hội chuyển hóa và thăng tiến theo giấc mơ lý tưởng của mình, bỏ lại đằng sau tất cả những vướng bận vào được mất, hơn thua cho cuộc sống nhị nguyên. Vâng, đấy chính là sức công phá vĩ đại của một tâm thức đã vượt lên trên thế giới vô thường vì đã “tỏ ngộ” về vô thường. Hẳn bạn không cần phải chờ cho tới khi già chết rồi mới hiểu được những giá trị chân thật của cuộc đời!
Chỉ một phút tĩnh tâm với một trang kinh, Steve Jobs đã hiểu được những giá trị thực thụ khi quán niệm về chết. Từ đó, ông đã ra sức sống hết mình với những gì tốt đẹp nhất và đeo đuổi mục tiêu của mình cho tới cùng. Động lực của của sự đeo đuổi này, dĩ nhiên, không phải vì hơn thua mà chính vì tấm lòng trân trọng cuộc sống, trân trọng những giá trị chân thật, và trân trọng cái “Mỹ” bên cạnh cái Chân và cái Thiện.
Có lẽ, bạn sẽ thấm thía hơn khi nghe Steve Jobs nói về cội nguồn hạnh phúc thật sự của đời mình trong mối tơ duyên nhọc nhằn của sống và chết: “Làm người giàu có nhất nằm trong nghĩa địa đối với tôi không thành vấn đề... Mỗi đêm khi đi ngủ và nói với mình rằng chúng ta đã làm điều gì đó thật là tuyệt vời... đó mới là vấn đề quan trọng với tôi. (Being the richest man in the cemetery doesn’t matter to me… Going to bed at night saying we’ve done something wonderful… that’s what matters to me) - The Wall Street Journal, 1993.
Xin tạm biệt một tâm hồn tràn ngập yêu thương!
Khải Thiên (Mùa Thu 2011)
(*) Bài cảm niệm được viết bởi cảm xúc của tác giả nhân đọc bài phát biểu của Steve Jobs được đăng trên trang web của ABC News, tháng 10, ngày 08, 2011. Link: http://abcnews.go.com/blogs/technology/2011/10/steve-jobs-talked-about-death-in-2005-stanford-commencement-speech-2/

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2011

Thời gian là vốn quý

Chúng ta thường cảm thấy mình thiếu thốn về món này, món khác... nhưng rất ít khi cảm thấy mình thiếu thốn thời gian. Nói một cách chính xác hơn, sự quan tâm đến tính chất hạn chế của thời gian thật ra chỉ là vì chúng ta cảm thấy không có đủ để cho chúng ta làm được điều này điều nọ... Chúng ta rất hiếm khi hoặc không bao giờ thấy tiếc nuối thời gian chỉ vì đó là thời gian, là vốn liếng quý báu rất hạn chế mà cuộc đời ta có được.
Khi ta sinh ra, điều chắc chắn duy nhất mà ta có thể biết được về tương lai của mình đó là ta sẽ chết. Dù là yểu mạng ở tuổi đôi mươi, hay sống thọ đến khi trăm tuổi như mong ước của nhiều người, thì cuối cùng chúng ta đều phải chết. Và mỗi ngày chúng ta trải qua trong cuộc sống, có thể hiểu một cách hoàn toàn chính xác là mỗi một bước tiến gần hơn về điểm cuối cuộc đời.
Chúng ta không hề bi quan khi thừa nhận điều này, vì đó là sự thật! Chính thái độ tránh né không đề cập đến sự thật này mới là thái độ hèn nhát, bi quan. Chúng ta thừa nhận sự thật này để thấy rõ một điều thực tế: thời gian được sống trên cõi đời này là đáng quý biết bao!
Chúng ta sẽ càng ý thức rõ hơn sự quý giá này khi nhớ rằng chúng ta không hề được đảm bảo là mình sẽ còn sống được bao lâu nữa. Tôi đã có lần chia tay với một người bạn thân, để rồi chỉ vài hôm sau nghe tin anh ta không còn nữa. Thật vậy, mạng sống quý giá này của ta có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào. Nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!
Sự quý giá của thời gian không phải là để giúp chúng ta có thể làm được những điều này, điều nọ... Có quá nhiều những điều này nọ như thế đủ để cho chúng ta quay cuồng trong suốt một đời, nhưng cuối cùng rồi chúng ta sẽ không mang theo được gì cả! Vấn đề là chúng ta phải biết sống như thế nào để xứng đáng với giá trị thời gian ấy. Chúng ta lao động như một phương tiện để nuôi sống, nhưng bản thân sự lao động sáng tạo cũng chính là cuộc sống của chúng ta. Ngược lại, những giá trị vật chất được tạo ra luôn luôn có những giới hạn tạm bợ của nó, và rõ ràng không thể là mục đích cuối cùng để chúng ta nhắm đến. Những giá trị vật chất ấy có thể giúp cho ta có cuộc sống thoải mái hơn, nhưng nếu chúng ta chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào chúng, chúng ta sẽ phải trả giá đắt. Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.
Nhiều người cho rằng nhờ sức lao động điên cuồng trong những xã hội công nghiệp mà loài người chúng ta mới có được ngày hôm nay, với những chiếc xe gắn máy hiện đại, máy điều hòa không khí, máy giặt quần áo... và cho rằng những thành tựu vật chất ấy là có ý nghĩa to lớn nhất. Tôi không hoàn toàn phủ nhận điều ấy, nhưng nếu đánh đổi sự quý giá của thời gian trong một đời người chỉ để vật lộn trong các nhà máy nhằm tạo ra các tiện nghi vật chất ấy thì tôi cho là không đáng. Thật tội nghiệp cho những người có suy nghĩ như thế, và tôi sẵn sàng chấp nhận một cuộc sống đơn sơ để có được thời gian cho một cuộc sống ý nghĩa hơn.
Chúng ta điên cuồng lao động quên ngày giờ để làm ra của cải vật chất, nhưng cũng chỉ vì không biết nghệ thuật sống, chúng ta sẵn sàng thiêu hủy những thành tựu vật chất ấy chỉ trong chốc lát. Một quả tên lửa mà quân đội viễn chinh Mỹ bắn vào thủ đô Irak trị giá đến một triệu hai trăm ngàn đô-la, và sức tàn phá của nó hẳn cũng hủy diệt đi một giá trị vật chất tương tự hoặc nhiều lần hơn thế nữa.
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình. Chúng ta còn được bao nhiêu thời gian trong cuộc sống? Đó là một câu hỏi không ai có thể trả lời được. Có thể là mười năm, hai mươi năm, có thể là một năm, có thể là vài ba tháng... nhưng cũng có thể chỉ là trong chốc lát nữa thôi. Vấn đề này sẽ bộc lộ hoàn toàn ý nghĩa thiết thực của nó khi chúng ta thử hình dung mình mắc phải một chứng bệnh nan y nào đó, ung thư chẳng hạn. Và phán quyết của bác sĩ cho chúng ta là một hoặc hai tháng nữa sẽ từ bỏ cuộc đời này. Thật kinh hoàng biết bao! Và khi ấy, chúng ta mới thấy tiếc nuối cuộc sống này biết bao! Thế nhưng, một thực tế là có biết bao người không hề mắc bệnh ung thư, cũng không hề được ai dự báo trước, vẫn có thể đột ngột từ bỏ cõi đời này mà không theo một quy luật nào cả. Làm sao dám chắc rằng chúng ta lại không là một trong số đó? Nếu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận sự thật ấy, chúng ta mới có thể sống thật trọn vẹn những giây phút hiện đang có được trong cuộc sống tươi đẹp này.
Thời gian cần phải được trân trọng trong từng khoảnh khắc. Khi chúng ta ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, chúng ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể. Đời sống của ta quý giá, và đời sống của mọi người quanh ta cũng quý giá không thể lấy gì đánh đổi được.
Mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta nhìn lên bầu trời trong xanh có ánh nắng ban mai ửng hồng, hoặc một chồi non vừa nhú còn ướt đẫm sương đêm... Mỗi một thực thể xinh đẹp ấy đều nhắc nhở ta biết là đời sống của ta đang tồn tại, và ta tự nhủ với mình sẽ không bỏ phí một phút giây nào được tồn tại trong cuộc sống nhiệm mầu này. Ta sẽ sống như thế nào để bản thân có được niềm vui hạnh phúc, và mang niềm vui, hạnh phúc đến cho mọi người quanh mình.
Cuộc sống luôn diễn ra quanh ta, nhưng rất nhiều khi ta quên đi điều ấy. Chúng ta lo toan chuyện này chuyện khác, chúng ta vất vả để có được món này món nọ... Những thứ ấy không phải là không quan trọng, nhưng chúng đều là những gì thuộc về tương lai, mà tương lai thì không thể cảm nhận được một cách cụ thể, chắc thật như giây phút hiện tại mà ta đang sống.
Khi hiểu được như vậy, chúng ta vẫn làm việc không kém phần tích cực cho những mục tiêu mà mình nhắm đến, nhưng trên cả những điều ấy là chúng ta luôn ý thức được giây phút sống hiện tại của mình.
Chúng ta đào một cái hố trong vườn để đặt cây xoài con. Mục tiêu của chúng ta là tiếp tục vun bón để một ngày mai sẽ có quả xoài thơm ngọt cho chính chúng ta hoặc con cháu của chúng ta. Nhưng quả xoài hãy còn trong tương lai. Niềm vui thật sự của chúng ta không nằm ở tương lai mà là ngay trong giây phút hiện tại này, trong từng nhát cuốc chúng ta đào, trong việc bón phân lót và đặt cây xoài con, trong việc tưới nước và che mát cho cây con... Chúng ta cần phải biết tận hưởng được niềm vui trong đó. Nếu chúng ta nghĩ đến một ngày mai con cháu chúng ta sẽ có những quả xoài thơm ngọt để ăn, thì thật ra động lực mang lại niềm vui cho chúng ta là tình thương ta dành cho con cháu, không phải bản thân việc có được quả xoài. Khi chúng ta hiểu được như thế, thì dù nhiều năm sau đó cây xoài không sống được để cho trái – và điều này hoàn toàn có khả năng xảy ra – chúng ta sẽ không đau khổ. Chúng ta đã tận hưởng niềm vui ngay trong hiện tại và không có gì phải phụ thuộc vào một kết quả trong tương lai. Chúng ta đã làm hết sức mình để có những giây phút đẹp trong đời sống, và vì thế chúng ta không có gì phải tiếc nuối hay đau khổ vì những hoàn cảnh không mong muốn.
Chúng ta cũng có thể tận hưởng niềm vui cuộc sống ngay trong khi đi bộ đến trạm xe buýt hay khi đang chờ xe... Mỗi một khung cảnh mà ta được nhìn thấy quanh ta đều là những quà tặng vô giá của cuộc sống mà rất có thể ta sẽ không còn có dịp để nhìn thấy nữa. Khi tôi còn nhỏ, tôi rất mê nghe nhạc cổ điển. Nhưng máy hát đĩa trong nhà là thuộc quyền sử dụng của anh tôi, vì tôi vẫn còn quá nhỏ. Anh tôi lại rất ít khi nghe nhạc cổ điển, vì anh thích các ca khúc tiền chiến hơn. Như vậy là, cứ mỗi dịp hiếm hoi mà anh mở đĩa nhạc cổ điển, tôi liền tập trung hết cả tâm hồn mình để chú ý lắng nghe, vì tôi biết là sẽ rất hiếm khi lại được nghe lần nữa. Những lúc như thế, tôi thấy những nốt nhạc không chỉ còn là âm nhạc, mà chúng như một dòng suối tuôn chảy niềm vui về cho tôi. Quả thật là khi nghe nhạc theo cách ấy, tôi đã tận hưởng được tất cả những nét đẹp kỳ diệu trong âm nhạc.
Chúng ta cũng sẽ không phung phí thời gian để mơ mộng về tương lai hay nuối tiếc quá khứ. Từng giây phút ta đang sống trong bầu không khí trong lành quanh ta đều quý giá. Từng con người mà ta có may mắn được tiếp xúc cũng đều quý giá. Ta không thể ngồi cạnh một con người mà tâm hồn để mãi tận đâu đâu. Khi ấy, ta không cảm nhận được sự hiện hữu của người ấy, mà người ấy cũng sẽ không hề cảm thấy thật sự có ta. Niềm vui của ta chỉ có được trong một sự tiếp xúc thật lòng mà không nằm trong những mơ mộng viễn vông. Đến một bông hoa, một cành lá... chúng ta cũng cần phải tiếp xúc thật lòng như vậy mới có thể cảm nhận được sự hiện hữu và vẻ đẹp của chúng.
Thời gian quý giá vẫn liên tục trôi qua không dừng nghỉ. Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng sông, một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó. Chỉ như thế chúng ta mới không bỏ phí đi giá trị của thời gian, và mới nhận ra được hạnh phúc là một điều hoàn toàn có thật.

Hien huu nhu that da va dang

Vào ngày 27 tháng 6, 1986, Thiền sư phụ tá Vipassana, ông Graham Gambie qua đời sau khi mang bệnh một thời gian ngắn. Graham là một trong ...