Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

Thien duyet



Thiền duyệt có nghĩa là sự an vui trong thiền tập. Khi mới bắt đầu tập thiền, tôi tưởng muốn an tâm và phát triển định lực ta cần phải có một sự cố gắng vất vả ghê gớm lắm. Tôi còn nhớ trong khóa tu thiền đầu tiên, tâm tôi cứ suy nghĩ lung tung và chu du đi khắp mọi nơi. Đến một lúc bực mình quá, tôi tự nhủ là nếu điều đó xảy ra lần nữa thì tôi sẽ đập đầu vào tường cho biết! Nhưng thật may cho tôi, lúc ấy tiếng chuông báo hiệu giờ ăn trưa cũng vừa được thỉnh lên. Trong khi sắp hàng chờ lấy đồ ăn, tôi nghe trộm hai người đứng phía sau nói chuyện với nhau. Một người hỏi thăm người kia về thời ngồi thiền vào buổi sáng này. Anh ta trả lời với một giọng thật vui tươi: "Sáng này tôi ngồi chẳng được yên gì mấy, nhưng chiều nay chắc chắn là sẽ tốt hơn."

Tôi quay lại nhìn anh ta với một ánh mắt kinh dị và khó tin. "Tại sao anh lại không hề bị bực mình như tôi?" Tôi tự hỏi. "Anh ta có coi chuyện hành thiền là quan trọng hay không chứ?" Và đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, anh ta là Joseph Goldstein. Năm năm rưỡi sau, hai chúng tôi cùng với Jack Kornfield và một số bạn có tâm đạo đã cùng nhau đứng ra thành lập Trung tâm thiền tập Insight Meditation Society. Đến lúc ấy thì tôi cũng đã hiểu được ý của Joseph khi anh nói lên câu đầy hy vọng ấy.

Khi sự tu tập tiến triển hơn, tôi mới hiểu những điều kiện cần thiết cho sự phát triển định lực không phải là cái thái độ tranh đấu, gian khổ mà tôi đã có. Theo tâm lý học Phật giáo thì bất cứ một tâm hành thiện nào cũng đều có một nhân duyên gần của nó. Đó là một điều kiện cơ bản làm phát khởi lên đức tánh ấy. Ví dụ, nhân duyên gần của tâm từ, metta, là thấy được sự tốt lành nơi người khác. Vì vậy, tâm metta dễ phát khởi nhất khi ta nhìn thấy những cái hay, cái đẹp của người chung quanh. Tôi thì cứ tưởng nguyên nhân để làm phát sinh tâm định phải là một sự căng thẳng, tranh đấu mãnh liệt. Nhưng hoàn toàn ngược lại, tôi vô cùng ngạc nhiên vì nhân duyên gần để làm phát khởi định lực lại chính là sự an lạc.

Sau này tôi mới hiểu, cố gắng trói buộc tâm mình vào trong một đối tượng sẽ không tạo điều kiện cho định lực phát sinh. Và trái lại, khi tâm ta buông thư, tĩnh lặng và hạnh phúc, ta sẽ có thể định tâm rất dễ dàng và tự nhiên. Hạnh phúc tôi muốn nói ở đây không phải chỉ là một cảm giác vui thú thoáng qua mà tự nó chứa đựng một sự lo âu vì ta sợ sẽ mất đi. Hạnh phúc làm điều kiện cho định lực mà tôi muốn nói là một trạng thái tĩnh lặng, khi tâm ta yên ổn, cởi mở và tự tin. Đây là một khu vườn phì nhiêu cho cây định đâm hoa, kết trái. Nhưng làm sao ta có thể có được trạng thái an lạc ấy?

Theo tôi nghĩ, muốn có một sự an lạc trước hết ta cần phải có một cái nhìn cho đúng. Một cái nhìn mà Joseph đã biểu lộ trong giờ ăn hôm ấy nhiều năm trước đây. Trong hành trình tu tập, bao giờ ta cũng sẽ có những kinh nghiệm mà ta cho là sự thăng trầm. Thiền tập là một tiến trình tuần hoàn, một vòng tròn, nó thách thức hết mọi sự phân tách nhưng đòi hỏi một sự chấp nhận. Và càng tu tập, tôi lại càng khám phá rằng khả năng chấp nhận và cho phép những kinh nghiệm thay đổi có liên hệ đến mức độ tự trọng của mình.

Khi đức tự trọng của tôi vững mạnh, tôi có thể trải qua những giai đoạn khó khăn mà không hề nản lòng. Vấn đề khó khăn không phản ảnh sự yếu kém của tôi. Và khi gặp những lúc an vui, dễ chịu, tôi cũng không bị lệ thuộc vào chúng, vì sợ chúng sẽ đổi thay hoặc mất đi. Đối với tôi, đức tự trọng là một yếu tố chủ yếu trong việc duy trì sự an lạc và từ đó dẫn đến định lực. Tôi cũng hiểu, mức độ tự trọng của tôi còn được cắm rễ trong những việc làm hằng ngày của tôi nữa, chứ không phải chỉ giới hạn trong lúc ngồi yên trên tọa cụ mà thôi. Tôi khám phá được chân lý này qua sự thực tập và nó cũng đã được ghi chép lại trong kinh điển.

Kinh điển Phật có trình bày cho ta thấy một trạng thái tâm thức sẽ giúp tạo nên điều kiện cho sự phát sinh của tâm thức kế tiếp như thế nào, theo một thứ tự ngẫu nhiên. Trong quyển Thanh tịnh đạo luận, Visuddhimagga, một tác phẩm nổi tiếng trong bộ Luận tạng của Phật giáo Nam tông, thì sự an lạc là một phần tự nhiên của tiến trình đi từ giới luật đến sự giải thoát tối thượng.

Mở đầu, bộ luận ấy nói rằng giới luật là nền tảng của sự phát triển định lực. Trong đạo Phật, giới luật không được xem như những điều lệ bắt buộc, cố định. Giới luật có nghĩa là sống với chủ ý phản ảnh tình thương và tâm từ của ta ra đối với chính mình và người chung quanh. Như triết gia George Santayana nói: "Giới luật là ước muốn làm vơi bớt khổ đau cho cuộc đời." Khi chúng ta sống hòa hợp với chân lý muôn đời là mọi vật trên thế giới này đều có liên hệ với nhau, ta sẽ không bao giờ muốn làm hại bất cứ một cái gì. Và giới luật sẽ làm phát khởi lên điều kiện tâm thức kế tiếp là sự câu thúc.

Câu thúc tức là ngăn giữ, kiềm chế, là nền tảng của sự phát triển một tâm không hối hận. Khi ta biết dừng lại một sự thúc đẩy nhất thời xúi giục ta hành động gây hại, ta có thể thấy được tính chất vô thường và vô ngã của ý muốn vừa khởi lên ấy. Tránh được những hành động gây hại, ta sẽ tránh được mặc cảm tội lỗi, sợ bị người khác biết, và nỗi bối rối, hối hận khi ta khám phá rằng bất cứ hành động nào cũng đều đem lại hậu quả.

Một điều kiện tích cực phát sinh từ sự câu thúc là trạng thái hỉ, tức vui mừng. Vì không hối hận chính là nền tảng của sự phát triển tâm hỉ. Hỉ là một trạng thái nhẹ nhàng và dễ chịu mà ta có trong cuộc sống, khi ta bắt đầu biết lo cho chính mình và người chung quanh nhiều hơn. Khi chúng ta thật sự cảm thấy một sự liên hệ với người chung quanh, ta sẽ buông bỏ những hành động nào có tính cách gây hại, và bớt làm những việc gì khiến ta cách biệt với người khác. Từ đó, cảm giác cô đơn, xa cách của ta cũng sẽ tan biến mất. Tâm hỉ lại là nền tảng cho sự phát triển an lạc.

Và ta có được sự an lạc qua phương cách đó - một sự an lạc của vững chãi và thảnh thơi. Sự an lạc ấy sẽ không bao giờ bị lay chuyển, cho dù vật đổi sao dời, con người có làm cho ta thất vọng, hoặc ta không đạt được những gì mình muốn. Hạnh phúc ấy dựa trên ý thức rằng mọi sự sống đều có liên hệ với nhau, và hành động của ta bắt nguồn từ một trạng thái nguyên lành và trọn vẹn nhất. Nó bắt nguồn từ một tâm thư thái. Ta gọi đó là đức tự trọng.

Tiếp theo đó, như trong Thanh tịnh đạo luận ghi chép, an lạc lại là nền tảng cho sự phát triển một tâm tĩnh lặng. Thay vì là những sôi động, xôn xao mà ta thường kinh nghiệm khi lo nghĩ và hối hận, tâm ta trở nên yên lặng hơn. Vì không phải lo đối phó và tháo gỡ những rối rắm trong tâm hồn, ta có thể an trú trong phút giây hiện tại này hơn. Tĩnh lặng, phát khởi từ sự an lạc, là nền tảng của sự phát triển định lực. Sự tĩnh lặng này chính là cái mà tôi đã thiếu trong khóa tu ngày xưa, nhiều năm trước đây.

Định là sự vững vàng của tâm, một cảm giác mà ta có khi sự chú tâm của ta nhất điểm và mãnh liệt. Khi ta có định lực, cánh cửa của tuệ giác sẽ mở rộng. Chừng ấy, ta có thể nhìn thấy được sự việc như chúng thật sự đang hiện hữu, và không để bị méo mó qua những lăng kính của sự ưa thích và ghét bỏ. Chính nhờ bỏ đi những lăng kính này mà ta bắt đầu biết tin tưởng vào khả năng cảm nhận sự thật của mình. Một cái nhìn và hiểu biết đúng đắn, khi đã thật sự trở thành một phần trong đời sống, sẽ là nền tảng cho sự phát triển một tâm bình thản.

Tâm bình thản không phải là một thái độ lãnh đạm và dửng dưng, mà là một tâm thức bao la, trong đó ta cảm thấy trọn vẹn và đầy đủ, cho dù hoàn cảnh cuộc đời có thăng trầm đến đâu. Nó là một sự trầm tĩnh trước những biến động của cuộc đời mà ta phải liên tục đối diện. Cho dù ta có đạt được những gì mình muốn hay không, chúng ta vẫn thấy được vấn đề trong đúng bối cảnh của nó. Ta vẫn có thể làm những gì cần làm để vơi bớt khổ đau của mình và kẻ khác, nhưng hành động ấy sẽ phát xuất từ một hạnh phúc nội tại. Đó chính là Joseph trong giờ ăn trưa hôm ấy, mặc dù lúc đó tôi cho rằng anh ta quá tầm thường, vì anh đã không tự hành hạ mình giống như tôi.

Sự bình thản là nền tảng cho sự phát triển một tâm bớt tham lam và giận dữ. Một khi chúng ta đối diện với cuộc đời bằng một tâm quân bình và hạnh phúc, ta sẽ không còn bị phản ứng máy móc theo thói quen và tập quán nữa, như là lúc nào cũng chạy theo lạc thú và trốn tránh đớn đau. Những tập quán lâu đời ấy sẽ thôi không còn cắm rễ vào tâm ta như xưa. Và nếu chúng có khởi lên cũng sẽ rất mềm yếu, ta không cần phải sợ hãi vì biết mình có một sự chọn lựa và không để chúng sai sử như trước.

Sự phai mờ của tâm tham lam và sân hận là nền tảng của giải thoát. Giải thoát chính là một sự hiểu biết chân lý mãnh liệt đến nỗi ta không còn có thể quay trở lại được nữa. Khi ta tiếp xúc với những kinh nghiệm của mình không bằng thành kiến, không cố gắng dùng chúng để khỏa lấp một sự trống vắng nào trong ta, ta sẽ thấy được rõ ràng những gì đang có mặt. Chúng ta có thể cởi mở với sự sống và học hỏi nó, vì chân lý của cuộc đời bao giờ cũng có mặt trong mỗi kinh nghiệm của ta. Khi ta có chánh niệm, ý thức rõ ràng và không phê phán, ta sẽ khám phá được nguyên nhân của khổ đau cũng như sự chấm dứt của khổ đau.

Sự tiếp nối này, như đã được diễn tả trong Thanh tịnh đạo luận - giới luật, ngăn giữ, hỉ, lạc, tĩnh lặng, định, bình thản, sự phai mờ của tham lam và sân hận, và giải thoát - chúng tiếp theo nhau thật tự nhiên như sự chuyển động của một làn gió. Và an lạc, khi được nhìn dưới ánh sáng của tiến trình này, sẽ trở thành một phần của con đường tu tập. Ta sống với tình thương, lòng từ bi, tâm bất hại, và chúng sẽ dẫn ta đến một khung trời giải thoát.

Mặc dù an lạc tự nó là mục đích, là hoa trái của thiền tập, nhưng nó cũng là một phương tiện, một trạng thái tâm thức mà ta có thể có ngay bây giờ và ở đây, chỉ cần ta biết tự trọng và sống với tình thương. Và niềm an lạc ấy là một nguyên tố chủ yếu giúp ta giải thoát ra khỏi mọi khổ đau trong cuộc đời này.

BAI 9: LUAN HOI



1. Luân hồi là gì?

Luân là bánh xe; hồi là xoay tròn; luân hồi là sự xoay chuyển, lên xuống của mỗi chúng sanh trong 6 cõi, khi đầu thai cõi này, khi đầu thai cõi khác, tiếp nối tử sanh, sanh tử không ngừng. Hình ảnh bánh xe xoay tròn là hình ảnh rất rõ ràng mà Phật dùng để chỉ sự xoay chuyển, lên xuống ấy.

2. Hãy kể ra 6 cõi trong luân hồi?

Lục là 6; đạo là con đường. Sáu cõi (gọi là lục đạo) là 6 cảnh giới khác nhau dành cho chúng sanh, tùy theo nhân quả thiện ác thế nào mà đầu thai về nơi ấy. Sáu cõi gồm có:

1. Địa ngục: là nơi có những hình phạt nặng nề, đau đớn, dành cho những kẻ làm nhiều việc ác, tội lỗi nặng nề.

2. Ngạ quỷ: nghĩa là quỷ đói, bụng rất to nhưng cổ họng rất nhỏ, không nuốt được thứ gì, bị cơn đói hành hạ triền miên, là cảnh giới của những chúng sanh tạo nhiều nghiệp tham lam.

3. Súc sanh: là những loài thú vật, vì ngu si nên bị người ta đánh đập hoặc giết ăn thịt, là cảnh giới của những chúng sanh tạo nhiều nghiệp si mê.

4. A-tu-la: là một loại thần tánh tình hung hăng nóng nảy, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo, là cảnh giới của những chúng sanh tạo nhiều nghiệp sân hận.

5. Người: là cõi có vui buồn sướng khổ, thiện ác, nhưng có thể gặp được Chánh pháp mà tu tập giải thoát thành Phật. Đây là cảnh giới của những chúng sinh biết giữ theo Ngũ giới.

6. Trời: là cõi được hưởng nhiều phước báu rất sung sướng, nhưng khi hưởng hết phước vẫn có thể sa đọa xuống những cõi khác thấp hơn. Đây là cảnh giới của những chúng sanh biết tu Thập thiện nghiệp.

3. Chúng sanh gây những nghiệp nhân gì mà luân hồi vào lục đạo?

- Địa ngục: do tạo nhiều nghiệp ác nặng nề, phạm vào một trong các tội Ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá sự hòa hợp của Tăng chúng và làm thân Phật chảy máu hoặc không cung kính, làm ô uế hình tượng Phật), làm những điều trái ngược với luân thường đạo lý.

- Ngạ quỷ: do tạo nhân tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người khác, hoặc trộm cắp cướp đoạt.

- Súc sanh: do tạo nhân si mê, sa đọa, không phân biệt tốt xấu, tin theo tà kiến.

- A-tu-la: do tạo nhân sân hận, hiếu chiến, thường giận dữ, gây gổ. Thế nên, những người làm nhiều việc thiện mà không trừ được tâm sân hận vẫn phải sanh vào cõi A-tu-la.

- Cõi người: nhờ biết tu tập giữ theo Ngũ giới.

- Cõi trời: nhờ biết tu tập Thập thiện nghiệp.

4. Con người có thể vượt qua sáu cõi luân hồi được không?

Con người có thể vượt qua sáu cõi luân hồi bằng cách tu hành đến những quả vị cao hơn như quả vị Bồ Tát, quả vị Phật, không còn luân chuyển trong con đường sinh tử nữa.

Chúng ta học bài này để nắm chắc bản đồ rồi nhắm hướng đi cho cả cuộc đời mình. Biết chắc rằng tạo nhân gì sẽ đầu thai vào cõi đó, vậy phải chọn lựa hành động, lời nói, ý nghĩ cho cẩn thận. Nếu không thoát khỏi luân hồi, thì cũng cố gắng về được 3 cõi lành, tránh xa 3 cõi ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thế đã là tốt, rồi sẽ tu tập thêm nữa. Nếu bị sanh vào 3 cõi ác thì xem như rất khó có cơ hội được nghe Phật pháp, không có cơ hội tu hành.

Phong sinh (Dieu Kim)



Mỗi ngày rằm, ngôi chùa nhỏ ven sông lại xôn xao. Tiếng lũ trẻ chạy khắp xóm la rân: "Lại coi thầy phóng sanh tụi bây ơi!". Những bàn chân khẳng khiu, đen mốc vì suy dinh dưỡng sải ào ào trên đường làng mấp mô đất sau một cơn mưa. Và rồi những gương mặt đem nhẻm bởi nắng gió tụ tập đen kín vòng trong vòng ngoài...

Thầy bảo cô Diệu Thiện bưng thau cá ra bờ sông. Cái thau màu xanh cũ kỹ nhưng bên trong đặc khừ những cá khiến lũ trẻ reo lên: "Trời ơi, cá rô ngon quá chừng bây ơi! Tép, tép nữa kìa". Cô Diệu Thiện chắt lưỡi: "Ngon cái gì! Người ta phóng sanh mà tụi con muốn ăn hay sao lại bảo ngon?". Thằng Được buột miệng: "Dạ ngon thiệt chớ! Con cá rô bự chảng kia con ăn cả chén cơm lận đó!". Con Thuý thấy vậy hùa theo: "Ừa, tao mà có vài con tép kia rang lên ăn cũng đã. Hôm qua má tao cho ăn kho quẹt mặn chát". Cô Diệu Thiện xua tay: "Thôi thôi, nín dùm đi mấy anh mấy chị. Sao mà om sòm, nói bậy nói bạ, thầy la bây giờ. Tối ngày lo ăn không hà, sát sanh không sợ!". Cô vừa dứt lời thì thầy ra tới. Lũ trẻ im bặt. Chúng nín thở nhìn theo bàn tay thầy đang cầm một nhánh bông trang nhúng trong ly nước trắng. Thầy bắt đầu tụng chú, rồi dùng nhánh bông rải nước lên cái thau, chuẩn bị thả cá. Lũ cá nghe xao động mặt nước, liền quẫy đuôi làm bắn lên tung toé. Cô Diệu Hoa và cô Diệu Hồng là hai người xuất tiền mua cá thả hôm nay, nên được "vinh dự" cầm cái thau nghiêng xuống bờ sông. Cá tép trong thau tuột dần xuống. Tép thì búng tanh tách, còn những cái lưng đen bóng của cá rô và cá bống dừa thì lơ lửng một hồi trong làn nước xanh biếc trước khi tỉnh táo hẳn để quẫy đuôi thật mạnh lội băng theo dòng, mất hút vào mênh mông tìm lại cuộc đời tự do. Hẳn chúng phải "hú hồn hú vía" sau một cuộc truy bắt tưởng đâu đã tiêu đời trong nồi trong chảo. Hai cô Phật tử nở nụ cười sung sướng. Hôm nay họ thả gần 10 ký cá chứ ít sao, sơ sơ 1 ký chừng 70 con lớn nhỏ, vị chi hai cô đã giải thoát cho 700 sinh mạng. Phước đức biết chừng nào!

Cô Diệu Huệ chắp tay: "Bạch thầy, tháng sau con xin đăng ký phóng sanh". Cô Diệu Thông cũng chắp tay: "Bạch thầy, cho con cùng đăng ký với cô Huệ". Thầy gật đầu: "Được rồi, thầy sẽ ghi tên hai cô vào sổ. Còn ai muốn phóng sanh nữa thì cứ đăng ký sau nhé". Cả đoàn người lục tục kéo nhau lên chùa lạy Phật trước khi ai về nhà nấy.

Bến sông chỉ còn trơ lại anh Năm Thìn, ngồi chồm hổm dưới gốc cây ô môi nhìn hoài xuống mặt nước. Bà Bảy đi ngang qua hỏi: "Mầy chưa về hả Năm? Nhìn gì dữ vậy?". Năm Thìn gãi đầu: "Ờ... thì tui nhìn... cá. Tiếc ghê hén bà Bảy. Hồi nãy mà có lưới kéo một cái thì... đã tay. Tự hôm rày tui tát mương, kéo lưới gì cũng ít xịt cá, tụi nhỏ ở nhà ăn cực quá chừng". Bà Bảy nạt: "Nói bậy. Người ta thả, bây lại đòi bắt. Người ta lo phóng sanh cho có phước, bây cứ nghĩ chuyện sát sanh". Năm Thìn thở dài: "Tui cũng biết phóng sanh thì có phước, nhưng mình nghèo quá đâu có tiền mua cá mà thả như mấy cô Phật tử đó. Con tui còn không có cá ăn, lấy đâu tới thả. Mà bà Bảy nói đừng sát sanh, vậy vợ con tui biết ăn cái gì bây giờ? Bà không thấy cả làng cả xã mình phần lớn nghèo như tui, sống nhờ con cá dưới sông, cọng rau trong vườn, quanh năm không có đồng bạc nào để đi chợ. Lo tiền trường cho con, tiền thuốc cho vợ, đã muốn ná thở". Nghe giọng Năm Thìn hơi dằn dỗi, bà Bảy tức cười: "Ai biểu bây kiếp trước không chịu tu, bây giờ phải chịu cái nghiệp. Càng sát sanh thì càng khổ hơn đó con. Nếu làm được như mấy cô Phật tử đó thì cái nghiệp mới nhẹ đi". "Thôi bà ơi, tui biết hết trơn á. Nhưng bây giờ biểu vợ con tui nhịn ăn cá luôn chắc ... nó chết. Bà cho tiền tui mua tàu hủ đi, cả nhà tui sẵn sàng ăn chay liền". Bà Bảy phì cười: "Thì bắt cá bán, đem tiền mua tàu hủ". Năm Thìn phủi đít đứng dậy: "Bà chọc tui hoài. Làm kiểu đó phóng sanh chi cho mất công". Và anh ta bươn bả đi về nhà.

Căn nhà như một căn chòi nhỏ xíu, bốn bề vách lá thủng lỗ chỗ, che thêm mấy tấm ni lông đủ màu anh lượm lặt quanh chợ. Cả xóm có rất nhiều căn nhà như thế, nên riết rồi Năm Thìn tự an ủi, quên đi giấc mơ hồi mới cưới vợ là phải có một căn nhà tử tế. Chỉ lo chạy gạo và tiền tập vở, quần áo cho hai đứa con đã đủ mệt. Nhìn con Thuý đã mười tuổi nhưng tong teo chỉ bằng con bé Misa 6 tuổi của chú em trai trên thành phố mà Năm Thìn đứt ruột. Bữa anh lên thành phố thăm chú Ut, thấy mâm cơm đầy vung nào cá thu chiên, nào thịt chà bông, nào chả lụa, vậy mà con bé Misa cứ ngúng nguẩy không thèm ăn. Chả bù với con Thúy và thằng Thương, bữa nào cũng cá kho khô, tép rang, canh rau mồng tơi hái ngoài hàng rào, vậy mà vét nồi cạn đáy. Nhưng đó là còn may, chớ bữa nào Năm Thìn tát mương, kéo lưới không có cá, thì vợ con anh ăn nước mắm là chuyện thường. Con nít cả xóm này cũng y như vậy, nên thôi, than thở làm gì. Nhưng mỗi lần mấy cô Phật tử phóng sanh cá, là Năm Thìn...ngồi tiếc. Anh biết mình nghĩ bậy, nhưng tự nhiên nó nghĩ, biết làm sao! Ước gì mình có đủ phước đức như người ta mình cũng đi phóng sanh, chớ ai mà muốn tạo tội sát sanh làm chi!

oo0oo

Lật bật mà một tháng trôi qua thiệt mau. Lại tới ngày phóng sanh. Chùa lại rộn ràng, bến sông lại đầy ken con nít và dân trong xóm. Nhưng lạ, sao lần này hổng thấy mấy cô Phật tử đánh tiếng cho người ta đem cá tới bán như những lần trước. Ngược lại, trong bếp chùa lại um sùm tiếng người cười nói, tiếng dao thớt lộp cộp. Đằng này xắt đậu hũ, đằng kia xắt củ sắn, góc nọ rửa nấm mèo, nấm rơm... Năm Thìn mon men hỏi: "Ủa, chùa mình bữa nay có đám hả bà Bảy?". "Ừ. Thầy mời cả xóm tới ăn đó nghen. Bây đi ra vàm mời mấy nhà ngoài đó, còn trong này thằng Tám Lựa đi rồi. À, coi qua nhà ông Tư mượn thêm mấy cái ghế đi con, sợ thiếu". Năm Thìn hít mũi: "Chà, làm món gì ngon vậy bà Bảy? Mà... có cho con nít vô ăn không?". "Có. Lớn bé gì thầy cũng đãi hết. Dẫn đám con của bây vô ăn luôn". Năm Thìn vỗ tay cái chát: "Trời, tui phải về kêu vợ tui đừng nấu cơm!". Bà Bảy cười: "Cái thằng!". Năm Thìn phóng như bay đi.

Mới xế xế trưa mà thức ăn đã nấu xong và dọn lên bàn. Có ba món thôi, nhưng món nào cũng trông thiệt ngon. Đích thân cô Diệu Thông vô bếp, làm "chủ xị". Cô nấu la-gu chay vàng ươm, béo ngậy, lũ con nít chấm bánh mì tới tấp. Còn món bún riêu chay thì trắng tươi những váng đậu hũ kết lại trong làn nước sóng sánh màu cà chua đỏ hồng, bên cạnh là một dĩa rau giá tươi xanh. Cuối cùng là món cơm bì, chan nước mắm chay ăn không thua gì cơm tấm bì ngoài chợ. Cả xóm ăn vui quá chừng, mà hổng biết thầy cúng đám gì, sao không nghe thông báo trước. Đám giỗ Hoà thượng thì đã qua rồi. Phật đản, không phải. Vu Lan, cũng không. Thôi kệ, từ từ hỏi sau, miễn thầy cho ăn là đỡ đi chợ một bữa. Nói nghe kỳ vậy ta? Ừ, thì kỳ, nhưng thiệt tình là vậy. Bữa nay Năm Thìn cũng khỏi đi kéo lưới. Tám Lựa khỏi đi cào cá chạch. Chà, bữa nay có cả chục con cá chạch thoát khỏi cái bàn cào bén ngót của Tám Lựa nghen. Thôi ăn đi cha, ngồi ăn chay mà cứ nhớ mấy con cá, tội lút đầu. Hổng phải đâu cha, tui đang mừng dùm nó là bữa nay nó thoát chết. Ừ, vậy thì được. Ủa mà ăn chay vầy coi bộ còn bổ hơn mấy bữa nhà tui ăn nước mắm à nghen. Chớ sao, coi nè, tàu hủ, nấm rơm toàn là chất gì... gì... tương đương thịt cá, bữa thầy giảng quên mất tiêu rồi. Chất đạm cha ơi. Nghe lỗ tai bên đây chạy lỗ tai bên kia. Ờ ờ, chất đạm. Thuý, Thương, ăn nhiều nhiều vô con, bù lỗ hôm qua ăn cực, lát nữa ba xin thầy một túm đem về chiều cho con ăn. Trời đất, tham quá đi, ăn còn đòi xách dìa! Kệ tui, tui nghèo, thầy thương, có gì xấu hổ. Phật từ bi chớ bộ...

Loáng cái, thức ăn đã sạch nhẵn. Mọi người sực nhớ: "Thầy ơi, thả cá đi thầy, bộ thầy quên hả thầy?". Thầy bước ra tủm tỉm cười: "Thầy thả rồi". Mọi người ngơ ngác: "Ủa, hồi nào? Sao con không thấy?". "Thầy thả lúc các con đang ăn đó". "Mèn ơi, sao thầy hổng kêu tụi con ra coi". "Chính tay các con thả, đâu cần chạy đi đâu coi nữa". Ơ... vậy là sao... Thầy lại tủm tỉm cười: "Mỗi bữa ăn, con ăn bao nhiêu con cá? Thí dụ cá bống đi". "Dạ, cá bống nhỏ xíu chắc phải ăn 10 con". "Vậy ở đây có tất cả bao nhiêu người?". "Dạ, chừng 70 người, tính luôn con nít đó thầy". "Ừ, làm toán nhân thử coi một bữa sáng 70 người ăn có phải hết 700 con cá bống không. Mà hôm nay các con ăn chay, nghĩa là các con vừa tha cho 700 sinh mạng. Như vậy các con đã phóng sanh rồi, đâu cần phải xuống sông làm lễ thả cá nữa". "Nhưng thầy ơi, tiền này của cô Diệu Thông và Diệu Huệ đi chợ làm tiệc, thì phước đức phóng sanh là của hai cô chớ tụi con chỉ ăn thôi, đâu có phước". "À, chuyện này thì ngược lại. Nếu cô Thông, cô Huệ mua cá thả thì chỉ hai cô có phước, nhưng nếu hai cô làm tiệc chay đãi 70 người thì cả cô lẫn 70 người này đều có phước. Vì 70 người này cùng tham gia tha bổng cho 700 sinh mạng kia mà. Chưa kể, hai cô còn giúp cho dân mình ăn no, đầy đủ chất bổ, trẻ em bớt suy dinh dưỡng, thì thầy nghĩ cái phước đó còn cộng thêm vô cái phước phóng sanh. Phải không nào?". Cả xóm vỗ tay rần rần: "Hoan hô thầy! Hoan hô cô Thông, cô Huệ!". Thầy đưa nhánh bông trang lên: "Từ nay, mỗi ngày rằm, thay vì bỏ tiền mua cá đem thả, thì chúng ta dùng số tiền ấy nấu tiệc chay đãi cả xóm cùng ăn, cùng giữ giới không sát sanh, các con có chịu không?". "Dạ chịu, dạ chịu". "Vậy ai đăng ký cho tháng tới thì nói thầy ghi tên vô sổ nhé". Dạ, dạ. "Bạch thầy, còn tụi con không có tiền làm tiệc thì xin tới phụ giúp nấu nướng, dọn dẹp, chớ ăn hoài mắc nợ nhà chùa...". "Không sao, miễn con phát tâm giữ giới là đã sinh phước đức. Nhờ giữ giới mà cuộc đời con có thể bớt khổ, hoặc khá giả, rồi sau này đến lượt con làm tiệc đãi lại mọi người". "Thầy dạy hay quá. Nhưng thầy ơi, chừng nào giàu tính sau, chớ ngay bây giờ cả xóm cùng quây quần ăn uống, tu hành như vầy con thấy hạnh phúc quá". "Đúng vậy, hạnh phúc ngay trong hiện tại. Ngày hôm nay chúng ta còn được ngồi bên nhau hoà thuận trong tình đồng đạo, tình làng nghĩa xóm như thế này chính là một hạnh phúc, phải cảm nhận lấy nó".

Một hồi trống bát nhã ngân vang. Mặt trời lên cao, đường làng ngập bóng tre bóng trúc. Những dáng người thanh thản bước đi dưới bóng cây râm mát, nghe lòng cũng dịu mát niềm vui. Dưới dòng kênh xanh, những con cá lòng tong nhởn nhơ lội trên mặt nước, tấm lưng thon dài trong veo tung tăng theo từng con sóng nhỏ. Chúng ngước mắt nhìn lên, thấy ai đó mỉm cười với chúng, thật bình yên...

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

IV.Ke truyen cua chu Phat



1. ĐỨC PHẬT TỲ-BÀ-THI

(Đức Thế-tôn thứ 998 về Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp)



Thân tùng vô tướng trung thụ sanh,

Du như huyễn do chư hình tượng.

Huyễn nhân tâm thức bổn lai vô,

Tội phúc giai không vô sở trụ.

身 從 無 相 中 受 生

猶 如 幻 由 諸 形 象

幻 人 心 識 本 來 無

罪 福 皆 空 無所 住 。

Dịch nghĩa

Thân thọ sanh từ nơi không tướng,

Như giấc mơ do tượng hình ra.

Người mơ tâm thức đâu mà?

Trụ đâu tội phước đều là thành không.



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ tám muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu Bà-đề. Ngài ở thành Bàn-đầu Bà-đề, ngồi dưới cây Ba-ba-la, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 348.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Khiên-trà, phép thứ hai tên là Đề-xá. Thị giả là ngài Vô-ưu-tử Phương Ưng.

2. ĐỨC PHẬT THI-KHÍ

(Đức Thế-tôn thứ 999 về Trang Nghiêm Kiếp)



Khởi chư thiện pháp bổn thị huyễn;

Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn.

Thân như tụ mạt, tâm như phong,

Huyễn xuất vô căn vô thật tánh.

起 諸 善 法 本 是 幻

造 諸 悪 業 亦 是 幻

身 如 聚 沫 心 如 凨

幻 出 無 根 無 實 性。

Dịch nghĩa

Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn;

Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.

Mình bọt đậu, lòng gió qua,

Không căn, không thật, tánh là huyễn thôi!



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu. Ngài ở thành Quang Tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 250.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là A-tỳ-phù, phép thứ nhì tên là Bà-bà. Thị giả là ngài Nhẫn-hạnh-tử Vô Lượng.

3. ĐỨC PHẬT TỲ-XÁ-PHÙ

(Đức Thế-tôn thứ 1.000 về Trang Nghiêm Kiếp)



Giả tá tứ đại dĩ vi thân,

Tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu.

Tiền cảnh nhược vô, tâm diệc vô,

Tội, phước như huyễn, khởi diệc diệt.

假 佐 四 大 以 為 身

心 本 無 生 因 境 有

前 境 若 無 心 亦 無

罪 福 如 幻 起 亦 滅。



Dịch nghĩa

Bốn vật lớn mượn làm thân đó,

Tâm không sanh, nhân cảnh mà sanh.

Cảnh không, tâm cũng không thành,

Đôi đàng tội phước như hình huyễn thôi!



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Thiện Đăng; mẹ là Xương Giới. Ngài ở thành Vô Dụ, ngồi dưới cây Bà-la, thuyết Pháp hai hội, độ cho người ta được 113.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Phù-du, phép thứ nhì tên là Uất-đa-ma. Thị giả là ngài Tịch-diệt-tử Diệu Giác.

4. ĐỨC PHẬT CÂU-LƯU-TÔN

(Đức Thế-tôn thứ nhất về Hiện tại Hiền Kiếp)



Kiến thân vô thật thị Phật thân.

Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,

Liễu đắc thân, tâm bổn tánh không.

Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?

見 身 無 實 是 佛 身

了 心 如 幻 是 佛 幻

了 得 身 心 本 性 空

斯 人 與 佛 何 殊 別。







Dịch nghĩa

Thân không thật, thấy là thân Phật;

Rõ được tâm không, Phật cũng không.

Thân, tâm, tánh ấy vốn không,

Người ta với Phật cũng đồng như nhau.



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bốn muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi. Ngài ở thành An Hòa, ngồi dưới cây Thi-lỵ-sa, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 40.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Tát-ni, phép thứ hai tên là Tỳ-lâu. Thị giả là ngài Thiện-giác-tử Thượng Thắng.

5. ĐỨC PHẬT CÂU-NA-HÀM MÂU-NI

(Đức Thế-tôn thứ 2 về Hiền Kiếp)

Phật bất kiến thân, tri thị Phật,

Nhược thật hữu tri, biệt vô Phật.

Trí giả năng tri tội tánh không,

Thản nhiên bất bố ư sanh tử.

佛 不 見 身 知 是 佛

若 實 有 知 別 無 佛

智 者 能 知 罪 性 空

坦 然 不 怖 於 生 死。





Dịch nghĩa

Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,

Nếu biết rồi, thì Phật là không.

Người khôn biết tội tánh không,

Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh.



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ ba muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng. Ngài ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới cây Ô-tàm Bà-la-môn, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 30.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Thư-hàm-na, phép thứ nhì là Uất-đa-lâu. Thị giả là ngài An-hòa-tử Đạo Sư.

6. ĐỨC PHẬT CA-DIẾP

(Đức Thế-tôn thứ 3 về Hiền Kiếp)



Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh,

Tòng bổn vô sanh, vô khả diệt.

Tức thử thân, tâm thị huyễn sanh,

Huyễn hóa chi trung vô tội, phước.

一 切 衆 生 性 清 淨

從 本 來 生 無 可 滅

即 此 身 心 是 幻 生

幻 化 之 中 無 罪 褔。





Dịch nghĩa

Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết,

Do không sanh, không diệt mà ra.

Thân, tâm là huyễn thôi mà,

Huyễn thì tội, phước hóa là đều không.



Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ hai muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ. Ngài ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-luật, thuyết Pháp một hội, độ được người ta 20.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Đề-xá, phép thứ nhì là Bà-la-bà. Thị giả ngài là Thiện-hữu-tử Lập Quân.

7. ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI

(Đức Thế-tôn thứ 4 về Hiền Kiếp)



Pháp bổn pháp vô pháp,

Vô pháp, pháp diệc pháp.

Kim phó vô pháp thì,

Pháp pháp hà tằng pháp.

法 本 法 無 法

無 法 法 亦 法

今 付 無 法 時

法 法 何 曾 法。







Dịch nghĩa

Pháp là pháp, vốn xưa không pháp,

Không pháp mà cũng pháp đó đây.

Ta trao không pháp hôm nay,

Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.



Ngài giáng sanh trong dòng nhà vua Sát-lỵ, phóng đại quang minh; dưới đất nảy lên hoa sen vàng. Ngài đi ngang bảy bước, đưa tay ra chỉ trời, chỉ đất, dùng tiếng Sư tử hống mà nói rằng: Trên trời, dưới đất, chỉ có một mình ta là tôn quý! Thuở đó, tức là ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (trước dương lịch 563 năm) đời vua Chiêu Vương nhà Châu, ngài giáng sanh; 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành Phật. Chuyển Pháp Luân Tứ Diệu Đế, thuyết Diệu Pháp Tam Tạng, hành đạo 49 năm.

Sau Ngài phán với đệ tử là Ca-diếp rằng:

"Ta đem Pháp Nhãn, diệu tâm Niết-bàn phó cho nhà ngươi."

Nói rồi Ngài thuyết bài kệ trên.







Ngài thuyết kệ xong rồi, ngồi ngay thẳng, lặng thinh nhập tịch ở dưới cây Sa-la. Các đệ tử liền lấy củi thơm thiêu hóa. Khi ấy cỗ quan tài vàng do chỗ ngồi khởi lên, cao thẳng bảy cây Sa-la, qua lại ở trong không, hóa ra lửa Tam muội, giây lát được 8 hộc 4 đấu xá-lỵ. Thuở đó, tức là năm Nhâm Thân đời vua Mục Vương nhà Chu. Phật trụ thế 83 năm, thị giả của Ngài là A-nan.

CHUONG BA: TRUOC CON SONG GIO



My Cốt tái xuất hiện – Mạc Vân, con người thực tế – Trước cơn sóng gió

My Cốt tái xuất hiện

Sau ngày hội kiến với Zanoni, hãy còn bàng hoàng vì những cảm xúc liên tiếp và những phản ứng lạ lùng của chính mình, Linh Đông liền dạo chơi nơi khu hoa viên thành phố để có thể lặng lẽ suy tư một mình.

Vườn hoa hôm ấy rất vắng vẻ. Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế dài dưới bóng mát một cây cổ thụ. Và giữa lúc thả hồn theo giấc mơ, anh bỗng có cái cảm giác ớn lạnh giống như lần trước mà Zanoni đã giải thích và gán cho nó một nguyên nhân thật lạ lùng huyền bí.

Anh bèn đứng phắt dậy và chợt rùng mình khi thấy gần bên mình là một nhân vật hình dáng xấu xa gớm ghiếc, có thể tượng trưng cho những vong hồn hung ác mà Zanoni đã nói chuyện tối hôm trước.

Người ấy có vóc dáng nhỏ thấp, ăn mặc xốc xếch lôi thôi. Thân hình anh ta nếu không phải là dị dạng kỳ quái vì mang một ác tật nào đó, thì ít nhất cũng phải nói là rất xấu xí khó coi. Anh ta có đôi vai co rút xuống, bộ ngực lép, hai bàn tay lớn và xương xẩu. Gương mặt anh ta biểu lộ những nét đau đớn của người bị bịnh bại liệt, với đôi mắt nhỏ như mắt lươn nhưng long lanh một tia sáng ranh mãnh, tinh quái. Cái mũi dài và nhọn, đầu mũi khoằm xuống như chỉ chực dòm vào miệng. Nụ cười anh ta làm cho cái miệng méo xệch như người bị đánh đòn đau, để lộ hai hàm răng thô khấp khểnh, đen và sâu.

Nhưng trên bộ mặt gớm ghiếc đó hãy còn phảng phất một nét khôn lanh, giảo hoạt, một vẻ mặt như lẫn lộn những nét xảo quyệt, gian trá và hỗn láo.

Sau cái cảm giác đột ngột đầu tiên, Linh Đông mới nhìn lại người ấy, bèn tự lấy làm hổ thẹn về sự sợ sệt vô cớ của mình khi nhận ra đó là My Cốt, một họa sĩ người Pháp mà trước kia chàng có quen biết.

Điều mâu thuẫn đáng nói ở người họa sĩ này là, mặc dầu có một hình thù thô kệch xấu xí nhưng anh ta lại thích khai thác những đề tài rất lớn lao, hùng vĩ. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ thì những tranh vẽ của anh ta chỉ có được nét hào nhoáng bên ngoài mà không có bề sâu, và hoàn toàn thiếu lý tưởng. Cái đẹp mà anh ta cố gắng trình bày trong tranh vẽ chỉ là cái đẹp của những hình thức mà người thế gian ưa chuộng, nhưng không hề gợi lên được một cảm xúc sâu xa nào trong tâm hồn người xem tranh.

Một điểm mâu thuẫn khác nữa là, trong khi anh ta là một con người rất dễ bị dục vọng lôi cuốn và xô đẩy vào những trạng huống cực đoan, thái quá, như đam mê trác táng trong tình dục và và hết sức cố chấp ôm giữ hận thù, thì anh ta cũng đồng thời luôn lớn tiếng ngợi ca những lý tưởng cao cả về sự thanh bạch, liêm khiết và lòng bác ái, vị tha của con người!

Sau hết, người họa sĩ này còn trao đổi thư từ thường xuyên với những người chủ trương Cộng hòa ở Paris và người ta kể rằng anh ta là một trong những người truyền bá tư tưởng mới kể từ lúc manh nha cuộc Cách mạng Pháp, khi các lãnh tụ được gửi ra nước ngoài hãy còn bị kìm hãm, trói buộc bởi nền quân chủ chuyên chế.

Riêng tại nước Ý thì không một thành phố nào lại sẵn sàng đón nhận những chủ thuyết mới lạ hơn là thành phố Naples. Một phần do tánh chất và hào khí bồng bột của cư dân địa phương, nhưng lý do quan trọng hơn là nền phong kiến cổ hủ với tất cả những sự bất công và áp chế đáng ghét của nó vẫn còn tồn tại và gây sự bất mãn ngấm ngầm trong quần chúng. Cái triển vọng rằng xã hội sắp có một sự đổi thay có tính cách hấp dẫn cụ thể hơn là bất cứ sự mới lạ nào khác trong đời sống hằng ngày. Vì thế mà họa sĩ Pháp My Cốt đã trở thành một người thủ lĩnh tiền phong của phong trào giải phóng quốc gia đối với giới trẻ và các giới tiến bộ ở Naples.

Còn Linh Đông thì trước khi quen biết Zanoni cũng đã từng có mặt trong số những người hâm mộ và hoan nghinh các lý thuyết hùng hồn của người sứ giả có hình dạng xấu xí này.

Lúc ấy, My Cốt ngồi xích lại gần Linh Đông và nói:

– Đã lâu rồi chúng ta không gặp nhau, phải không anh bạn đồng nghiệp? Chắc anh không ngạc nhiên khi thấy tôi rất vui mừng được gặp anh và lại còn đường đột đến làm gián đoạn sự suy tư của anh.

Linh Đông đáp:

– Không có gì là đường đột cả, tôi cũng vui mừng gặp lại anh nơi đây.

My Cốt bèn móc túi lấy ra mấy phong thư và nói:

– Hẳn anh sẽ thích thú nếu được biết rằng đại cuộc đang diễn tiến một cách nhanh chóng lạ thường. Mirabeau không còn nữa, đúng vậy, nhưng mẹ kiếp, chính dân chúng Pháp bây giờ lại trở thành những Mirabeau!

Nói xong, My Cốt bèn đọc và bình luận vài đoạn hào hứng trong xấp thư từ của ông ta. Hăng say vì những triển vọng tốt đẹp mở rộng trước mắt, anh ta bắt đầu nói ra những sự tiên đoán tương lai mà trước đây người ta đã từng được nghe như một phần chính yếu trong những lời tuyên bố của hầu tước Condorcet.

Tất cả những đức tánh cũ đều bị loại bỏ để nhường chỗ cho một loạt những đức tánh mới. Lòng yêu nước là một đức tính thiển cận, hẹp hòi, và phải được thay thế bằng tình bác ái, tình đồng loại. Chỉ có tình thương bao trùm cả nhân loại trên năm châu bốn biển, không phân biệt tổ quốc và gia đình mới xứng đáng với một tâm hồn mới khoáng đạt và tiến bộ.

Những tư tưởng sẽ tự do như không khí, và để đạt tới kết quả đó cần phải bắt đầu bằng việc thủ tiêu những kẻ nào có những tư tưởng không phù hợp với tư tưởng của My Cốt!

Những điều đó làm cho Linh Đông cảm thấy có ý vị trào lộng, tức cười, dẫu rằng ông ta không biểu lộ ngay tức khắc sự bất bình hay phản đối. Nhưng khi người họa sĩ nói tới việc phát minh một thứ khoa học mà ai cũng hiểu được và có ích lợi cho tất cả mọi người, một thứ khoa học phát sinh từ sự bình đẳng xã hội và đem đến cho nhân loại sự giàu có thịnh vượng mà không cần phải làm việc khó nhọc, thì Linh Đông lắng tai nghe với một sự chú ý và ngưỡng mộ hòa lẫn với sự khâm phục, kính nể.

My Cốt nói tiếp:

– Có những tình cảm mà ngày nay người ta xem như những đức tính tốt, nhưng trong thời đại mới sẽ bị loại bỏ như những điểm hèn kém. Thí dụ như những kẻ áp chế, bóc lột nhân dân thường đề cao lòng biết ơn. Nhưng thật ra thì biết ơn tức là tự thú nhận sự thấp kém của mình. Đối với một tâm hồn cao thượng, còn gì xấu xa nhục nhã cho bằng sự khuất phục hệ lụy người khác? Nhưng trái lại, khi đã có sự bình đẳng thì không thể nào còn có sự hệ lụy hay khuất phục ai cả. Khi đó sẽ không còn có người ban ơn và kẻ chịu ơn, người bảo hộ và kẻ được che chở, và...

Bỗng có tiếng nói thấp giọng của một người đứng gần bên:

– Và trong khi chờ đợi thì... gì nữa? Hả, My Cốt?

Hai người họa sĩ giật mình nhìn lại thì Linh Đông mới nhận ra đó là Zanoni.

Zanoni, với một vẻ mặt nghiêm khắc lạ thường, nhìn thẳng vào mắt My Cốt. Người này đang ngồi trên ghế dài cũng nhìn lại một cách lấm lét, và một vẻ sợ sệt hiện lên trên nét mặt xấu xí ghê tởm của hắn ta. Zanoni nói:

– Đây không phải là lần đầu tiên ta được nghe những lời vong ân bội nghĩa của mi.

My Cốt cố đè nén một tiếng kêu mà hắn ta bất giác phải thốt lên, và sau khi liếc nhìn Zanoni lần nữa bằng đôi mắt gian xảo quỉ quyệt có hàm chứa một sự hận thù sâu đậm nhưng đành chịu bất lực, hắn ta nói:

– Nhưng tôi không biết ông là ai? Và ông muốn gì ở tôi?

– Ta chỉ muốn rằng mi cút ngay khỏi đây và để chúng ta ngồi yên.

My Cốt đứng dậy, hai bàn tay nắm chặt, nghiến hai hàm răng khấp khểnh lộ ra từ lỗ tai bên này đến tận lỗ tai bên kia như một con mãnh thú trong cơn điên dại, rồi lẳng lặng bước đi.

Zanoni đứng yên và nhìn theo sau hắn ta với một nụ cười khinh bạc, còn Linh Đông thì lấy làm ngạc nhiên vê sự việc vừa xảy ra. Zanoni hỏi:

– Anh quen người này trong trường hợp nào?

– Tôi biết ông ta như một bạn đồng nghiệp, vì ông ta cũng theo đuổi nghệ thuật hội họa như tôi.

– Hừ? Nghệ thuật! Đừng nên lạm đụng danh từ cao cả đó. Cõi thiên nhiên là như thế nào đối với Thượng đế thì nghệ thuật cũng phải như thế đó đối với con người. Nó phải là một cuộc sáng tạo thiêng liêng tốt đẹp. Thằng khốn nạn đó có thể là một thợ vẽ, nhưng không thể là một nghệ sĩ được.

– Xin lỗi ông nếu tôi muốn hỏi ông về con người mà ông vừa bình phẩm một cách không mấy tốt đẹp đó?

– Dầu sao, tôi biết rằng anh được đặt dưới sự bảo vệ của tôi, nên tôi cần dặn dò anh hãy cẩn thận đề phòng con người như hắn ta. Những lời nói của ông ta biểu lộ một tâm hồn xấu xa bỉ ổi. Tôi có cần gì phải kể ra những tội ác hắn ta đã làm. Chỉ những lời nói của hắn ta cũng chứa đầy tội lỗi!

– Tiên sinh Zanoni, ông không có vẻ là một người nhiệt thành hoan nghinh cuộc Cách mạng đang chớm nở? Có thể ông ghét người ấy vì không đồng quan niệm với ông chăng?

– Quan niệm gì mới được chứ?

Linh Đông ngừng lại một lúc để suy nghĩ, rồi nói:

– Nhưng không, có lẽ tôi lầm về phần ông, vì chắc là ông không thể nào chê biếm lý thuyết cách mạng chủ trương cải tiến đời sống con người.

– Anh nói đúng! Thời nào cũng vậy, chỉ có một thiểu số người ưu tú và tiến bộ đứng ra lãnh đạo để cải tiến đa số quần chúng. Có thể rằng quần chúng đời nay cũng khôn ngoan bằng cái thiểu số của thời xưa, nhưng sự tiến bộ của nhân loại sẽ lâm vào ngõ bí nếu anh nói với tôi rằng quần chúng đời nay cũng khôn ngoan bằng thiểu số của bây giờ.

– Tôi hiểu lời ông nói. Ông không thừa nhận thuyết bình đẳng đại đồng trong nhân loại!

– Thuyết đó là một điều láo khoét! Dẫu cho tất cả thế giới đồng loạt nổi dậy để áp đặt sự láo khoét ấy cho mọi người, họ cũng không thể làm cho nó thành chân lý được. Dẫu cho ngày nay người ta cố san bằng mọi sự chênh lệch, người ta cũng chỉ san bằng được những chướng ngại chống đối sự độc tài chuyên chế của ngày mai. Một quốc gia khát vọng sự bình đẳng là không xứng đáng với sự tự do. Trong tự nhiên, từ các thiên thần cho đến các loài côn trùng, từ ngọn núi cao cho đến một hột cát, từ bầu tinh tú sáng chói cho đến khối tinh vân đông đặc trải qua nhiều thế kỷ dưới trạng thái sương mù và bùn lầy để trở nên một thế giới có sự sống, cái định luật chính yếu trong vũ trụ bao giờ cũng vẫn là sự bất bình đẳng.

– Đó là một lý thuyết rất chán nản nếu áp dụng vào chính trị. Những chênh lệch bất công trong đời người có bao giờ xóa bỏ được chăng?

– Nếu nói về đời sống vật chất thì mọi sự chênh lệch bất công đều nên xóa bỏ. Nhưng những sự chênh lệch về trí tuệ và tinh thần thì sẽ không bao giờ. Làm sao có được một sự bình đẳng đại đồng về lý trí, tài năng, đạo đức và trình độ tiến hóa tâm linh? Nếu như vậy thì thế gian đâu còn những bậc giáo chủ, những nhà hiền triết, đâu còn những người khôn ngoan minh triết và tốt lành hơn kẻ khác? Dẫu cho điều ấy có thể thực hiện được đi nữa, thì phải chăng đó sẽ là một viễn ảnh tuyệt vọng cho nhân loại? Không! Ngày nào mà trời đất vẫn còn tồn tại thì mặt trời bao giờ cũng vẫn chiếu ánh nắng chói chang trên đỉnh núi cao trước khi chiếu xuống đồng bằng. Ngày hôm nay, nếu ta đem tất cả mọi ngành khoa học và kiến thức của thế gian chia sẻ đồng đều cho tất cả mọi người, thì ngày mai cũng vẫn sẽ có những người khôn ngoan hơn người khác. Và điều đó không phải là một định luật gò bó, ép buộc, mà là một định luật bác ái, một định luật tiến hóa tự nhiên thực sự. Một thiểu số người càng khôn ngoan hơn trong một thế hệ, thì quần chúng của thế hệ tiếp theo sau đó sẽ càng khôn ngoan hơn nữa!

Trong khi Zanoni nói chuyện, cả hai người cùng đi qua những khu vườn xinh tươi, phía trước là mặt biển chói rạng dưới ánh nắng mặt trời buổi trưa. Một ngọn gió mát nhẹ thổi phớt qua làm dịu bớt sức nóng mùa hè. Cảnh trời quang mây tạnh sáng sủa và gió biển mát rượi gây cho lòng người một cảm giác nhẹ nhàng thoải mái. Zanoni nói:

– Để mở màn cho một thế hệ tiến bộ và bình đẳng, thậm chí người ta đã tỏ ra ganh tị cả với đấng Tạo hóa! Họ muốn phủ nhận sự hiện diện của đấng Hóa công, hay một đấng toàn năng sáng tạo, một trí thông minh siêu đẳng tuyệt vời. Anh là một nghệ sĩ, khi anh nhìn vào cõi thiên nhiên với cặp mắt nghệ sĩ của anh, có thể nào anh chấp nhận được cái luận thuyết đó không? Giữa Thượng đế và bậc thiên tài luôn có sự liên hệ mật thiết, như một sự giao cảm thiêng liêng. Sextus, môn đồ phái Pythagore đã nói rất có lý: “Một khối óc siêu việt là phản ảnh của Thượng Đế.”

Ngạc nhiên và xúc động vì những lời nói được thốt ra một cách không ngờ từ một người mà anh ta vẫn cho rằng có những năng lực không phải thuộc về chánh đạo, Linh Đông buột miệng nói:

– Tuy vậy, ông đã nhìn nhận rằng cuộc đời ông sống bên ngoài cuộc đời thế tục là một cuộc đời khác thường mà người ta nên tránh. Thế thì có mối liên hệ nào giữa khoa pháp môn và tôn giáo hay chăng?

– Khoa pháp môn ư? Thế nào gọi là khoa pháp môn? Khi người du khách dừng chân để chiêm ngưỡng những Kim tự tháp bên Ai Cập hay những ngôi đền cổ hoang tàn Đế Thiên Đế Thích, thì những kẻ ngu dốt nói cho họ nghe rằng đó là công trình của các vị pháp sư, phù thủy. Điều gì vượt quá tầm hiểu biết của con người thì người đời không chịu nhìn nhận rằng đó có thể là công trình siêu việt của những người khác khôn ngoan hơn. Nhưng nếu anh hiểu khoa pháp môn là sự học hỏi tìm tòi những định luật bí ẩn trong thiên nhiên thì đúng vậy, tôi đang thực hành khoa pháp môn đó, và sự học hỏi đó làm cho người ta càng tiến đến gần hơn cái nguồn gốc của mọi tín ngưỡng. Anh có biết chăng, khoa pháp môn được truyền dạy trong tất cả các đạo viện thời cổ, dưới sự dẫn dắt của các bậc đạo trưởng trong giới huyền môn.

Zanoni ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Và anh là họa sĩ, lẽ nào anh không tìm thấy một thứ ma thuật hay ma lực nào trong ngành hội họa đó sao? Sau khi trải qua một thời kỳ tìm tòi khảo cứu lâu dài về cái đẹp trong thiên nhiên, lẽ nào anh lại không tìm cách khám phá ra những nét mỹ lệ và cái đẹp lý tưởng trong tương lai hay sao? Anh há không nhận thấy rằng đối với một thi nhân cũng như một họa sĩ, nghệ thuật tinh vi vẫn luôn tìm kiếm sự chân thật và ghét bỏ cái hiện hữu tầm thường? Và chúng ta phải xem thiên nhiên như bậc thầy để tìm tòi học hỏi chứ không phải là để làm nô lệ đóng khuôn mọi sự cho giống y như thiên nhiên? Anh muốn khắc phục dĩ vãng và có được khả năng biết trước tương lai hay chăng? Nghệ thuật chân chính há không đặt nền móng trong tương lai và dĩ vãng hay sao? Anh muốn biết sử dụng thần chú để kêu gọi những nhân vật trong cõi vô hình hay chăng? Nhưng hội họa là gì, nếu không phải là thể hiện bằng nét vẽ và màu sắc những gì vô hình mà mắt thường không nhìn thấy? Anh bất mãn với cuộc đời chăng? Thế giới này đâu phải là thế giới của những bậc thiên tài? Những bậc kỳ tài muốn sống thoải mái thì phải tự tạo cho mình một thế giới khác. Có nhà phù thủy nào làm hơn được như vậy chăng? Thậm chí có khoa học nào có thể làm hơn được như vậy chăng? Anh có những khả năng đưa anh đạt tới sự thành công trên đường nghệ thuật. Anh hãy tự bằng lòng với định mệnh đó. Anh hãy từ bỏ những ước vọng phiêu lưu hoặc hứng thú nhất thời đang lôi cuốn anh, khi thì tìm đến tôi, khi thì tìm đến một nhà biện thuyết viễn vông nào đó... Ông ta với tôi đều là những đối tượng trái ngược và cách biệt nhau muôn trùng. Cái cọ vẽ là chiếc đũa thần của anh, bức tranh lụa của anh có thể tạo nên những viễn tượng còn đẹp hơn tất cả những viễn ảnh tương lai mà triết gia Condorcet hằng mơ tưởng. Tôi không hối thúc anh phải cho tôi biết quyết định ngay, nhưng có bậc thiên tài nào muốn được sống mãi trong lòng người mà không cần đến tình yêu và danh vọng?

Linh Đông vừa nói vừa nhìn Zanoni bằng cặp mắt đầy vẻ hứng khởi nhiệt thành:

– Nhưng nếu như có một quyền năng có thể làm cho người ta vượt qua sự chết để trở nên bất tử?

Zanoni sa sầm nét mặt, rồi sau một cơn im lặng, chàng nói:

– Nếu con người có được quyền năng đó thì phải chăng đó sẽ là một điều bất lợi, vì người ta sẽ sống sót trong cô đơn khi những người họ thương yêu lần lượt chết hết. Và do đó mà ta sẽ phải do dự khi chấp nhận những mối liên hệ tình cảm với người khác ở cõi thế gian này. Nếu muốn được trường sinh bất tử thì tốt hơn là hãy được nổi tiếng và để tên tuổi bất diệt của mình lại cho đời.

– Ông không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ nói một cách úp mở. Tôi có nghe nói rằng một số nhà luyện kim có thể kéo dài sự sống rất lâu hơn giới hạn thông thường của người đời. Chất kim đơn thần dược phải chăng là có thật, hay đó chỉ là một huyền thoại?

– Nếu đó không phải là một huyền thoại, và nếu thật sự có người đã luyện được kim đơn thì họ sẽ chết vì không muốn sống nữa. Biết đâu rằng sẽ có một sự cảnh báo nghiêm trọng nào đó trong những điều anh vừa nêu ra. Nhưng tốt hơn anh nên trở về với cọ vẽ và những hộp sơn dầu của anh.

Nói đến đây, Zanoni vẫy tay từ giã và chậm rãi bước đi về hướng thành phố.

Mạc Vân, con người thực tế

Cuộc nói chuyện với Zanoni đã gây cho Linh Đông một ảnh hưởng tốt lành và xoa dịu tâm hồn. Anh thả hồn theo những cơn mơ tưởng mông lung và tưởng tượng trong trí một cảnh gia đình ấm cúng nơi đó anh sống hạnh phúc với nghệ thuật và tình yêu thơ mộng của nữ ca sĩ Kiều Dung.

Giữa những cơn mơ mộng thần tiên đó thì giọng nói mạnh mẽ hùng hồn của Mạc Vân, con người khôn ngoan sáng suốt, làm cho anh tỉnh mộng và kéo anh trở về với cuộc đời thực tại.

Những người bẩm tính mơ màng viển vông, có óc tưởng tượng mạnh hơn ý chí, hay để cuộc đời thả trôi theo những cơn ngẫu hứng nhất thời, thường hay chịu ảnh hưởng của những tâm hồn thực tế, tích cực, hai chân đứng vững trên mặt đất chứ không mơ màng khóc gió thương mây. Đó là trường hợp của Linh Đông.

Trong quá khứ, bạn anh đã từng kéo anh ra khỏi hiểm nguy và giúp anh tránh khỏi những hậu quả của sự dại dột hờ hững trong việc tiếp xúc với đời. Trong giọng nói của Mạc Vân có một cái gì đó làm dịu bớt lòng hứng khởi và khiến cho Linh Đông phải hoang mang. Mạc Vân là người bao giờ cũng giữ một thái độ trung dung, hợp lý trong mọi việc. Anh chủ trương chọn con đường bằng phẳng, ngay ngắn trong cuộc đời và chê bai nhạo báng những kẻ lạc lối muốn vượt lên những ngọn đồi cheo leo hiểm trở, dù rằng là để hái hoa bắt bướm hay để có một tầm nhìn bao quát suốt đến tận chân trời.

Mạc Vân cười nói với Linh Đông:

– Tôi biết anh đang nghĩ gì. Với cặp mắt long lanh ướt và nụ cười nửa miệng của anh, tôi đoán rằng anh đang mơ tưởng đến con bé đào hát ở nhà hát San Carlo.

Linh Đông đỏ mặt đáp:

– Con bé đào hát! Anh sẽ gọi nàng như vậy chăng nếu nàng là vợ tôi?

– Không, bởi vì chừng đó thì tất cả lòng khinh bỉ mà tôi có thể có sẽ trút lên đầu anh. Người ta không ưa những kẻ lừa bịp, nhưng chính kẻ bị lừa mới là đáng khinh!

– Anh có chắc rằng tôi bị lừa trong một cuộc hôn nhân như thế không? Tôi còn tìm thấy ở đâu nữa một người con gái vừa đẹp vừa hiền và chính chuyên đức hạnh như thế? Từ trước đến nay, có bao giờ một lời đồn đãi vu khống nào của thiên hạ đã từng làm hoen ố thanh danh của nữ nghệ sĩ Kiều Dung hay chưa?

– Tôi không được nghe tất cả những lời bình phẩm khen chê của người dân Naples, nên tôi không thể trả lời anh về điều đó. Nhưng tôi biết điều này: ở Anh quốc không ai tin rằng một thanh niên Anh có tài sản và gia thế lại đi cưới một cô đào hát Ý mà không bị xem là lầm lạc một cách đáng thương. Tôi muốn tránh cho anh khỏi bị rơi vào một cuộc hôn nhân bất lợi như thế. Anh hãy nghĩ đến những dư luận của người đời và tất cả những thiệt thòi, tổn thương trong vấn đề giao tế xã hội của anh sau này.

– Tôi có tự do lựa chọn một sự nghiệp tương lai, và điều đó không liên hệ gì đến vấn đề giao tế. Tôi muốn người ta kính trọng tôi qua tài năng và nghệ thuật chứ tôi không đặt vấn đề danh vọng căn cứ trên giai cấp hay địa vị và tiền bạc.

– Thế nghĩa là anh vẫn khư khư ôm ấp cái mộng vô lý thứ nhì của anh là bôi mực lọ lên khung vải? Tôi không chê bai những người vì sinh kế mà phải chọn theo nghề vẽ. Nhưng với những người như anh, có đủ khả năng vật chất và quen biết những bạn bè thân thuộc có thế lực để lấy đà tiến thân lên một địa vị cao sang, tại sao anh lại tự hạ thấp địa vị mình để làm một anh nghệ sĩ quèn? Vẽ tranh để tiêu khiển trong những lúc nhàn hạ là rất tốt, nhưng lấy đó làm một nghề nghiệp thì thật là điên rồ.

– Có những nghệ sĩ tài ba từng được danh dự gần gũi và giao du thân mật với cái bậc đế vương!

– Tôi cho là việc đó rất hiếm xảy ra ở Anh quốc. Ở một đất nước là trung tâm chính trị lớn của giới quí tộc thì điều mà người ta kính trọng là tinh thần thực tế chứ không phải những lý tưởng viển vông. Để tôi thử phác họa cho anh thấy hai viễn cảnh khác nhau về cuộc đời mà anh có thể chọn. Thứ nhất, chàng Linh Đông trai trẻ trở về Anh quốc, cưới một người vợ môn đăng hộ đối, có tài sản tương xứng với anh, với gia đình phía vợ có gia thế thuận lợi cho việc tiến thân. Anh trở thành một người giàu sang và có thế lực. Anh bắt đầu có những hoạt động xã hội với những khả năng và nghị lực dồi dào. Anh có một biệt thự riêng để tiếp khách và bạn bè, gồm toàn những người có địa vị cao và sự giao du thân mật có thể đem đến cho anh nhiều lợi lộc, danh vọng. Anh có thời gian nhàn rỗi để dùng vào những sự học hỏi hữu ích. Anh có nhiều tiếng tăm, danh vọng, được xây dựng trên một nền tảng vững chắc, và càng được củng cố trong dư luận quần chúng. Anh gia nhập một chính đảng, bắt đầu tham gia chính trường, những bạn bè quen biết sẽ giúp đỡ anh thực hiện những kế hoạch và tham vọng. Cuộc đời anh cứ theo cái đà đó mà tiến lên dần. Khỏi nói cũng biết rằng tương lai anh sẽ xán lạn rực rỡ như thế nào. Và bây giờ là viễn cảnh thứ hai. Chàng Linh Đông trai trẻ trở về Anh Quốc với một người đàn bà có tài nghệ nhưng không có gia sản. Nàng ấy chỉ sinh lợi cho anh ta với điều kiện là được tiếp tục nghề ca hát. Nàng trình diễn rất xuất sắc, mọi người đều hoan hô và tìm hiểu xem nàng là ai, và rồi mọi người đều biết nàng là ca sĩ Kiều Dung. Chàng Linh Đông thì đóng cửa ở nhà để trộn màu và vẽ tranh với những đề tài lịch sử mà chẳng có ai mua. Thậm chí người ta còn có định kiến không tốt với anh ta vì anh không hề xuất thân ở trường Cao đẳng Mỹ thuật, anh chỉ là một họa sĩ nghiệp dư. Nói đúng ra, những bức tranh đó cũng có giá trị riêng của nó, nhưng người ta sẽ thích tranh của TeniersWatteau hơn, vì hai nhà danh họa này đã nổi tiếng từ lâu. Thế là Linh Đông cứ lận đận không ngóc đầu lên được. Gia sản của anh ta từ khi còn độc thân đã có thể đảm bảo cho anh một đời sống thoải mái. Nhưng bây giờ thì anh ta đã có một gia đình đông đúc con cái, mà tài sản ấy không được tăng thêm bởi một món tiền hồi môn nào khi cưới vợ, nên ngày càng tiêu mòn. Anh ta bèn lui về quê để giảm bớt chi phí sinh hoạt và để vẽ tranh. Những năm sau đó, anh sống trong cảnh túng thiếu và bất mãn. Anh cho rằng thế gian không biết thưởng thức tài nghệ của anh và anh đâm ra xa lánh người đời. Thế là xong! Và cuộc đời của anh ta kết thúc như thế nào? Tôi để cho anh tự xét đoán để tìm ra câu giải đáp vậy.

Linh Đông đứng dậy nói:

– Nếu tất cả mọi người đều thực tế như anh thì trên đời này sẽ không bao giờ có những thi nhân và nghệ sĩ!

Mạc Vân đáp:

– Rồi chúng ta vẫn sống không sao cả nếu không có họ? Nhưng thôi, đã đến giờ phải nghĩ đến cái ăn rồi chứ? Chúng ta hãy đi ăn trưa.

***

Trong nghệ thuật hội họa, một họa sư thiếu kinh nghiệm sẽ hạ thấp và làm hư hỏng khả năng của người học trò nếu ông ta chủ trương một cách sai lầm rằng: “Hãy vẽ giống y như thiên nhiên,” và cái thiên nhiên ấy sự thật chỉ là cái tầm thường. Người họa sư như thế không hiểu rằng trong nghệ thuật, cái đẹp phải được quan niệm như một cái gì mà Raphael đã định nghĩa rất đúng rằng: “Ý niệm về cái đẹp tự nó xuất hiện trong tâm hồn người họa sĩ.” Theo quan niệm đó thì trong bất cứ ngành nghệ thuật nào, dù được biểu lộ qua màu sắc, âm thanh hay lời nói, hay bằng những nét tạc trên đá, sự bắt chước thiên nhiên một cách nô lệ máy móc chỉ là việc làm của những kẻ đang tập tành hay những tay thợ thủ công.

Cũng vậy, sự gần gũi một người quá thực tế làm suy giảm và ngăn chặn lòng hứng khởi nhiệt thành của những tâm hồn tế nhị, vì nó luôn gò bó và ngăn chặn những cử chỉ hào phóng, tự tin của người nghệ sĩ và buộc họ phải quay về với sự thô tục và tầm thường.

Một thi hào Đức đã diễn tả rất đúng sự khác nhau giữa tính dè dặt cẩn thận và sự minh triết chân chính. Trong sự minh triết khôn ngoan có một nét hào sảng tự nhiên mà những người cẩn thận mực thước không bao giờ có. Các nhà phê bình nghệ thuật trứ danh như AristotePline của thời cổ đại cho đến những họa sư của thời hiện đại đều cho rằng người họa sĩ không nên rập khuôn theo thiên nhiên, mà phải biết lý tưởng hóa những gì nhìn thấy trong thiên nhiên. Thật vậy, người nghệ sĩ chân chính, dù là họa sĩ hay thi nhân, luôn cố gắng diễn tả những gì là mỹ lệ thanh cao mà con người có thể đạt tới, nhưng không phải là thông thường đối với con người.

Nguyên tắc “lý tưởng hóa” đó còn khó hiểu hơn trong việc xử thế của con người. Những lời khuyên thực tế về sự lo xa dè dặt làm cho người ta mất sự hứng khởi trong những hành vi đức hạnh vị tha cũng như trong những việc làm xấu xa tội lỗi. Nhưng trong việc xử thế cũng như trong nghệ thuật, có một ý niệm về tính cách hùng vĩ, mỹ lệ mà người ta cần phải có để cải tiến, thăng hoa tất cả những khía cạnh xấu xa tầm thường của đời người.

Linh Đông tuy rất hiểu sự dè dặt sáng suốt trong lập luận của Mạc Vân, nhưng anh không quan tâm đến những viễn cảnh tương lai mà người bạn này vừa trình bày.

Thật vậy, sự trung thành với lý tưởng nghệ thuật của Linh Đông không kém mãnh liệt hơn sự đam mê tình cảm đối với Kiều Dung. Sự đam mê này nếu biết xoay đúng chiều hướng sẽ có thể giúp tinh luyện tâm hồn anh ta giống như một ngọn gió mạnh làm thanh lọc khí trời.

Nhưng nếu Linh Đông không thể có một quyết định theo ý của Mạc Vân, anh ta cũng không đành lòng an phận mà từ bỏ ngay việc theo đuổi Kiều Dung. Từ hai ngày nay, vì sợ rằng mình đã bị ảnh hưởng những lời khuyên của Zanoni và những cảm nghĩ xuất phát tự đáy lòng nên Linh Đông đã tránh hẳn mọi cuộc gặp gỡ với Kiều Dung. Nhưng sau lần hội kiến cuối cùng với Zanoni và cuộc nói chuyện với Mạc Vân vừa rồi, Linh Đông bèn quyết định sẽ gặp lại Kiều Dung vào sáng mai, và dù chưa có mục đích hay kế hoạch gì rõ rệt, anh chấp nhận sẽ tự thả trôi theo ngẫu hứng tự nhiên của lòng mình.

***

Kiều Dung ngồi trên thiếc ghế dài ngoài sân trước ngưỡng cửa nhà nàng và suy nghĩ vẩn vơ. Phía trước là mặt biển phẳng lặng như gương dưới bầu không khí êm đềm của buổi trưa hè nóng bức. Nàng ăn mặc đơn sơ, với một cái áo choàng bằng lụa mỏng để lộ phần trên của bộ ngực đẹp, một mái tóc vàng óng nuột lòa xòa phất phơ dưới ngọn gió nhẹ mát từ ngoài biển thổi vào. Sức nóng ngày hè làm cho đôi má nàng hây hây đỏ và đôi mắt lớn càng thêm mơ mộng, uể oải khác thường.

Kiều Dung chưa bao giờ đẹp đến thế, dẫu là trong những bộ y phục lộng lẫy trên sân khấu và trong những lúc tinh thần phấn khởi dưới ánh đèn màu.

Trong khi đang mãi nghĩ đến Zanoni, nàng không nhận ra có tiếng chân người rón rén bước lại gần, nhưng rồi một bàn tay đặt nhẹ lên cánh tay nàng. Kiều Dung quay đầu lại và nhận ra Linh Đông.

Gương mặt cởi mở của người thanh niên Anh trấn tĩnh lòng nàng. Nàng định rời khỏi chỗ ngồi trên thiếc ghế dài thì Linh Đông đã nắm lấy tay nàng ấn xuống, rồi anh ta cũng ngồi xuống bên cạnh nàng và nói:

– Kiều Dung ơi! Cô phải biết rằng tôi đã yêu cô! Tôi luôn đến với cô không phải chỉ do lòng ái mộ tài nghệ của cô mà thôi. Từ trước đến giờ có những lý do khiến tôi không thể tỏ tình với cô bằng cách nào khác hơn là những cái nhìn câm lặng. Nhưng hôm nay không hiểu tại sao tôi đã có đủ can đảm và nghị lực để tỏ bày tấm lòng tôi với cô và chờ đợi xem cô quyết định số phận tôi như thế nào. Tôi biết rằng tôi có những tình địch với thế lực mạnh hơn nhiều so với một nghệ sĩ quèn như tôi. Nhưng tôi không biết họ có được mắt xanh của cô để ý đến nhiều hơn tôi chăng?

Kiều Dung hơi ửng hồng đôi má, có vẻ lúng túng, và sau một lúc do dự, nàng nói:

– Những người phí thời giờ để nghĩ đến một cô đào hát tất nhiên phải biết trước là họ sẽ có tình địch. Đó chẳng qua là một điều bất hạnh cho nghiệp cầm ca của chúng tôi mà thôi!

– Nhưng tôi chắc rằng cô không thích cái nghiệp cầm ca đó, dẫu rằng nó đang rất sáng sủa tốt đẹp. Dường như cô không đặt hết cả tâm hồn vào sự nghiệp mà tài nghệ của cô đã làm cho rạng rỡ.

Kiều Dung đáp với đôi mắt đẫm lệ:

– Có lẽ là vậy. Có một thời tôi đã yêu thích nghệ thuật ca nhạc, nhưng bây giờ thì tôi cảm thấy đó chỉ là một nghề bạc bẽo làm cho tôi trở thành nô lệ của thiên hạ.

Chàng họa sĩ thốt lên với một niềm hứng khởi đột ngột:

– Vậy xin cô hãy bỏ nghề ca hát. Hãy đoạn tuyệt với nghiệp cầm ca đã làm cho quả tim cô bị chia sẻ bởi nhiều người. Tôi chỉ mong ước được chiếm trọn quả tim ấy cho riêng mình mà thôi. Từ nay trở đi, xin cô hãy cùng chia sẻ cuộc đời với tôi, chia sớt những nỗi vui buồn sướng khổ cùng lý tưởng của tôi. Cô sẽ là nguồn cảm hứng cho những bức họa phẩm và công trình tuyệt tác của tôi. Sắc đẹp của cô sẽ trở nên bất tử với thời gian. Trong những cuộc triển lãm họa phẩm của tôi, thiên hạ sẽ dừng chân trước bức họa một vị nữ thánh, hay một thần vệ nữ, và trầm trồ ngợi ca: “Đó là Kiều Dung!” Ôi, Kiều Dung! Tôi yêu cô vô cùng, xin cô hãy nói cho tôi biết rằng mối tình của tôi không phải là tuyệt vọng!

Kiều Dung nhìn thẳng vào mắt chàng trai si tình và đáp lại đúng vào lúc anh ta ngồi xích lại gần và nắm lấy một bàn tay nàng:

– Linh Đông ơi, anh thật đẹp trai và lại rất tốt bụng! Nhưng tôi có thể cho anh điều gì để đáp lại lòng tốt ấy?

– Tình yêu, tình yêu, và chỉ có tình yêu mà thôi?

– Anh nghĩ sao nếu tôi nói với anh rằng đó chỉ là tình thương của một người em gái?

– Ôi! Xin cô đừng nói với tôi một cách lạnh lùng độc ác như thế?

– Nhưng đó quả thật là tất cả những gì tôi nghĩ về anh. Khi tôi nhìn gương mặt anh, nghe giọng nói của anh, tôi cảm thấy dường như có một cảm giác yên tĩnh, thư thái và xoa dịu lướt nhẹ qua lòng tôi, trấn an những tư tưởng của tôi. Khi vắng anh rồi tôi cũng cảm thấy buồn đôi chút, nhưng không lâu, và nỗi buồn man mác ấy cũng tiêu tan ngay sau đó. Thật sự là tôi không cảm thấy nhớ thương anh, tôi không nghĩ nhiều đến anh. Không, như vậy là tôi không hề yêu anh! Và lòng tôi chỉ có thể nghĩ đến người tôi yêu mà thôi.

– Nhưng tôi sẽ cố gắng để dần dần rồi cô sẽ yêu tôi. Cô đừng lo ngại gì cả. Cái tình yêu mà cô vừa nói đó, dưới bầu trời yên tĩnh của chúng ta, sự trẻ trung và hồn nhiên vô tội không hề biết có thứ tình yêu nào khác.

Kiều Dung nói:

– Sự hồn nhiên, vô tội ư? Có thể như thế chăng!

Đến đây, nàng ngừng lại và nói thêm một cách gắng gượng:

– Như vậy, anh thật lòng muốn cưới một cô gái mồ côi như tôi chăng? Nếu vậy, ít nhất anh cũng là một người rất độ lượng.

Linh Đông hơi chựng lại, dường như lương tri của anh ta bị chạm vào bởi câu nói đó. Kiều Dung đứng dậy, không hề biết đến những ý nghĩ hổ thẹn và nghi ngờ đang giày vò tâm hồn của chàng trai trẻ. Nàng nói:

– Không, không thể như vậy được! Anh hãy để tôi yên và hãy quên tôi đi! Anh không thực sự hiểu tôi đâu, anh không thể hiểu gì về người con gái mà anh tưởng là anh yêu! Từ thuở ấu thơ, tôi đã linh cảm rằng định mệnh của tôi sau này sẽ rất lạ lùng và khó giải thích. Dường như đó sẽ là một cuộc sống thoát ly ra khỏi sự sống thường tình của người đời. Cảm giác đó đôi khi đi kèm với một niềm phúc lạc mơ màng, đôi khi lại pha lẫn với một sự sợ sệt tối tăm rùng rợn. Đó dường như là một bóng hoàng hôn từ từ bao phủ quanh tôi. Tôi mơ hồ cảm thấy giờ khắc của tôi đã sắp đến, chỉ còn ít lâu nữa thôi là màn đêm tối tăm sẽ rơi xuống.

Linh Đông lắng nghe với một sự xúc động và băn khoăn hiện rõ trên nét mặt. Khi nàng đã nói xong, anh ta đáp:

– Kiều Dung, những lời nói của cô lại càng làm cho tôi thấy gần gũi cô hơn bao giờ hết. Những cảm giác mơ hồ mà cô vừa nói đó, thật ra tôi cũng luôn cảm thấy y như vậy. Tôi cũng luôn bị ám ảnh bởi một thứ linh cảm lạ lùng, hầu như huyền diệu. Tuy sống giữa mọi người, tôi vẫn cảm thấy cô đơn. Trong những cuộc vui chơi hưởng lạc, hay trong những khi làm việc, dường như một giọng nói bí ẩn luôn thì thầm bên tai tôi những lời này: “Thời gian sề dành cho ngươi một định mệnh bí hiểm đầy đen tối.” Trong khi cô nói ra những điều lúc nãy, tôi tưởng chừng như đang nghe tiếng nói bộc bạch của chính linh hồn tôi.

Kiều Dung nhìn ông ta một cách ngạc nhiên và hỏi:

– À, anh hãy cho tôi biết, anh có nghe nói về một người ngoại quốc vừa đến ở thành phố này chăng? Một người mà người ta đã đưa ra rất nhiều lời đồn đãi thật dị kỳ?

– Cô muốn nói đến Zanoni? Tôi đã gặp anh ta, và có quen biết anh ta. À, chính người ấy cũng muốn là tình địch của tôi. Anh ta cũng muốn ngăn cách cô với tôi.

Kiều Dung nói trong tiếng thở dài não nuột:

– Anh lầm rồi! Anh ta đã bênh vực cho anh. Chính anh ta nói với tôi rằng anh yêu tôi và cũng chính anh ta đã yêu cầu tôi đừng từ chối anh.

– Thật là một nhân vật lạ lùng! Một con người bí hiểm, khó hiểu! Nhưng tại sao cô vừa rồi cô lại nhắc tới anh ta?

– Tại sao ư?... À, tôi muốn biết xem khi anh gặp anh ta lần đầu tiên, cái linh cảm mà anh vừa nói có đến với anh một cách rõ ràng hơn và đáng sợ hơn trước kia hay chăng? Anh có cảm thấy như vừa bị lôi cuốn lại vừa bị dội ngược, và anh có cảm thấy rằng những bí ẩn trong cuộc đời anh có liên hệ đến anh ta hay chăng?

Linh Đông đáp với một giọng run rẩy:

– Tôi đã cảm thấy tất cả những điều đó vào lần đầu tiên gặp anh ta. Tối hôm đó, quanh tôi đang có một cuộc vui họp mặt bạn bè, có nhạc, có đèn, có chuyện trò vui vẻ giữa một bầu không khí trong lành dưới bầu trời quang đãng không một cụm mây che. Tuy thế, bỗng nhiên tôi cảm thấy hai gối run lập cập, tóc dựng đứng, máu như ngừng chạy trong huyết quản. Kể từ ngày đó, anh ta chiếm một phần lớn những tư tưởng của tôi, cũng như cô vậy.

Kiều Dung nói với một giọng nghẹn ngào trong cổ họng:

– Tất cả những điều đó hẳn phải mang dấu vết của định mệnh. Nhưng tôi không thể nói chuyện với anh nhiều hơn nữa trong lúc này. Xin chào anh!

Nói xong, nàng hối hả chạy ngay vào nhà và đóng cửa lại. Linh Đông không theo nàng vào nhà, và có điều lạ là anh cũng không hề cảm thấy muốn làm như vậy. Cái ý nghĩ về đêm trăng trong công viên thành phố với những lời nói lạ lùng của Zanoni đã làm tê liệt nơi anh ta mọi sự đam mê tình cảm. Ngay cả hình bóng Kiều Dung cũng vậy, nếu như chưa bị quên lãng thì cũng đã tạm thời lắng xuống như một cái bóng mờ trong những ngõ ngách bí hiểm nhất của tâm hồn. Linh Đông rùng mình cho dù anh đang đi dưới ánh nắng mặt trời, và trong cơn suy tư trầm lặng anh chậm rãi đi qua những khu phố đông đúc và huyên náo nhất của thành phố.

***

Zanoni đã đến thăm Kiều Dung tại nhà nàng nhiều lần. Những ngày đó đối với nàng là một thời kỳ đặc biệt, một giai đoạn sáng sủa vui tươi nhất trong đời. Tuy vậy, chàng không hề thốt ra những lời lẽ ngợi khen, ca tụng sắc đẹp và tài nghệ của nàng, chứ đừng nói chi đến những lời lẽ yêu đương nồng thắm mà nàng đã từng nghe quen tai từ hầu hết những nam nhân được dịp tiếp chuyện với nàng.

Cách ứng xử của chàng dẫu rằng không kém vẻ lịch sự xã giao bề ngoài, nhưng thật lạnh lùng cách biệt. Tuy vậy, điều đó lại càng làm tăng thêm tính chất thú vị cho giai đoạn mộng mơ hạnh phúc của lòng nàng.

Zanoni nói rất nhiều về cuộc đời dĩ vãng của anh, và Kiều Dung lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng chàng biết rõ tất cả quá khứ. Trong những ngày viếng thăm đầu tiên, chàng không nói gì đến Linh Đông. Nhưng một ngày nọ, chàng lại nhắc đến chuyện ấy. Bây giờ thì Kiều Dung đã hoàn toàn tin tưởng và tuân phục nơi chàng đến nỗi mặc dầu đối với nàng thì việc tiếp nhận vấn đề đó rất khó khăn nhưng nàng vẫn đè nén quả tim mình và ngồi nghe trong im lặng mà không phản đối. Sau cùng, chàng nói:

– Cô đã hứa sẽ nghe theo lời khuyên của tôi. Bây giờ nếu tôi yêu cầu cô, nếu tôi van xin cô hãy chấp nhận mối tình của người ấy, hãy chia sẻ định mệnh với anh ta nếu anh ta đề nghị kết hôn với cô, thì cô có từ chối hay không?

Kiều Dung cố gắng giữ lại những giọt lệ đã đọng đầy trong khóe mắt, và với một niềm vui lạ lùng giữa cơn đau khổ mà nàng vừa cảm xúc, một niềm vui của người con gái chấp nhận hy sinh cả đến quả tim của mình để làm vừa lòng người yêu đã làm chủ quả tim ấy, nàng gượng đáp trong sự gắng gượng đau khổ:

– Nếu chàng thực sự muốn em làm như thế, thì...

Đến đây, nàng dừng lại vì không sao thốt nên lời.

– Thì sao? Cô hãy nói đi.

– Chàng hãy sai khiến em như thế nào tùy ý chàng muốn?

Zanoni ngồi im lặng trong một lúc. Chàng nhận thấy cơn xung đột nội tâm của người yêu mà Kiều Dung tưởng rằng đã khéo giấu được chàng. Rồi trong một cử động vô tình, chàng cúi xuống đặt một nụ hôn trên bàn tay nàng. Đó là lần đầu tiên mà chàng từ bỏ, dẫu rằng chỉ đến mức đó, cái thái độ nghiêm trang từ lúc đầu. Chàng nói:

– Kiều Dung ơi, cái nguy cơ mà tôi không có thể cứu vãn được nữa nếu cô còn ở lại Naples nay mỗi lúc càng đến gần. Trong ba ngày nữa, số phận của cô phải được quyết định. Tôi chấp nhận lời hứa của cô. Trước nửa đêm của ngày thứ ba tới đây, cho dù có việc gì xảy ra thì tôi cũng sẽ đến gặp cô tại nhà này. Trong khi chờ đợi, ta hãy tạm biệt!

Trước cơn sóng gió

Linh Đông đang đứng ngắm nhìn bức tranh trưng bày trong một cuộc triển lãm các họa phẩm danh tiếng thì cảm thấy có người nắm lấy tay mình. Anh quay lại thì thấy My Cốt đứng gần bên. Hai nhà họa sĩ cùng nhận xét về các bức danh họa, bình phẩm về khuynh hướng nghệ thuật của thời đại cùng những sở trường của mỗi môn phái hội họa khác nhau. Bỗng My Cốt vỗ vai Linh Đông và hỏi:

– À! Còn tên bịp bợm Zanoni sao rồi? Tôi đã tìm biết rõ họ tên và những mánh khóe lừa bịp của hắn ta. Hắn ta có nói với anh điều gì về tôi chăng?

– Nói về anh sao? Tôi không nghe nói gì cả. Anh ta chỉ bảo tôi hãy đề phòng đừng nghe theo những lý thuyết chính trị của anh.

My Cốt nói:

– A! Chỉ có vậy thôi sao? Hắn ta là một tay bịp hạng nặng. Ngày chúng ta gặp nhau vừa rồi, kể từ lúc tôi lột mặt nạ hắn ta, tôi biết chắc thế nào hắn ta cũng sẽ trả thù bằng cách mạ lỵ hoặc vu khống tôi.

– Lột mặt nạ anh ta? Chuyện ấy đầu đuôi ra sao?

– Đó là một câu chuyện dài và phiền phức. Hắn ta muốn dạy cho một người bạn tôi, là một thằng vừa điên vừa gàn, những bí quyết về phép dưỡng sinh và khoa luyện kim để đạt tới thuật trường sinh bất tử! Tôi khuyên anh nên chấm dứt sự giao thiệp nguy hiểm với hắn.

Nói đến đây, My Cốt chia tay và đi thẳng.

Vài ngày sau, Linh Đông đang ngồi vẽ tranh tại nhà thì nghe tiếng bước chân của Mạc Vân đi tới. Anh ta bước ra mở cửa. Mạc Vân đưa mắt nhìn bức tranh đang vẽ một cách chế nhạo và nói:

– Đó là tất cả những gì anh đã làm trong mấy ngày qua? Có bấy nhiêu đó mà anh phải đóng cửa nằm nhà, bỏ phí những ngày tươi sáng và những đêm thanh thú vị của thành phố Naples ư?

– Khi mà cơn ngẫu hứng của tôi vẫn còn thì cõi lòng tôi tràn ngập một vầng ánh sáng huy hoàng hơn, và tôi đê mê thưởng thức một ánh trăng khuya còn huyền diệu hơn nhiều!

– Thế là anh cũng nhìn nhận rằng cơn ngẫu hứng của anh đã qua. Tốt lắm! Ít nhất đó cũng là dấu hiệu cho thấy rằng sự hợp lý đã trở lại với anh. Dầu sao đi nữa, thà bôi màu lem luốc trên tấm phông bằng vải trong ba ngày còn hơn là làm trò cười cho thiên hạ suốt cả một đời. Và còn con bé ngư nữ lúc này ra sao rồi?

– Anh hãy im di! Tôi không thích nghe anh nhắc đến nàng theo kiểu cách đó.

Mạc Vân kéo ghế xích lại gần bên chiếc ghế của Linh Đông, rồi thọc tay vào túi quần, ngồi duỗi thẳng hai chân và sắp sửa thốt ra một tràng dài những lời phê bình khôn dại về chuyện tình duyên của bạn mình. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, và không đợi ai lên tiếng mời vào, My Cốt đã ló cái bộ mặt gớm ghiếc của hắn ta ra rồi bước vào nhà.

My Cốt ngắm nghía bức tranh dựng trên tấm giá gỗ ba chân đặt nơi góc nhà, rồi phê bình luôn một hơi. Chờ hắn nói xong, Linh Đông mới hỏi:

– Phần tôi như vậy cũng tạm đủ! Còn anh có gì lạ không?

My Cốt vừa nhón gót để vươn mình lên ngồi trên một chiếc ghế đẩu chân dài vừa nói:

– Trước hết là chuyện tiên sinh Zanoni, tức là lão Cagliostro thứ nhì, là người công kích những lý thuyết cách mạng của tôi. Tôi không hay thù hận, vì như Helvétius đã nói, những lỗi lầm của chúng ta đều do sự đam mê mà sinh ra, và tôi luôn biết chấn chỉnh những đam mê của tôi. Nhưng nếu vì đại nghĩa, vì tình thương nhân loại mà hận thù, thì sự hận thù lại là một đức tính tốt! Bởi đó, tôi mong ước có ngày được giao nhiệm vụ truy tố và xử án lão Zanoni tại Paris!

Nói đến đây, đôi mắt lươn ti hí của My Cốt phóng ra những tia lửa, hai hàm răng hắn ta nghiến chặt lại trong sự căm hờn uất hận.

– Anh có lý do nào khác nữa để ghét ông ta chăng?

My Cốt nói một cách giận dữ:

– Có chứ? Tôi vừa được biết anh ta đang theo đuổi người con gái mà tôi định cưới làm vợ.

– Anh định cưới làm vợ? Anh muốn nói đến ai vậy?

– Nữ danh ca Kiều Dung chứ ai! Nàng rất đẹp, phải nói là đẹp lạ lùng! Nàng có thể giúp tôi trở nên giàu có trong một nước Cộng hòa, và chúng ta sẽ có thể chế Cộng hòa vào cuối năm nay.

Mạc Vân vừa xoa hai bàn tay vừa cố đè nén một tiếng cười khoái trá. Linh Đông thì đỏ mặt vì giận dữ và vì thẹn với bạn. Anh ta cố gắng giữ bình tĩnh và hỏi:

– Anh cũng biết Kiều Dung sao? Anh có nói chuyện với nàng bao giờ chưa?

– Chưa, nhưng khi tôi đã quyết định làm một việc gì thì việc đó phải xong! Tôi sắp trở về Paris. Người ta viết thư cho tôi hay rằng một người đàn bà đẹp sẽ giúp cho sự nghiệp của một chiến sĩ ái quốc được dễ dàng hơn. Thời kỳ của những thành kiến cổ hủ nay đã qua. Tôi sẽ mang về Paris người đàn bà đẹp nhất châu Âu cho thiên hạ biết tay!

Linh Đông giơ hai bàn tay nắm chặt thành quả đấm, hai mắt nẩy đom đóm trông đỏ ngầu, hăm hở tiến đến gần My Cốt, nhưng liền bị Mạc Vân nắm lấy cánh tay ngăn lại:

– Kìa, hãy bình tĩnh chứ! Anh định làm gì vậy?

Linh Đông hướng về phía My Cốt, rít lên giữa hai kẽ răng:

– Anh hãy coi chừng tôi đấy! Anh không biết rằng anh đã nói xúc phạm tới nàng. Anh dám cho rằng Kiều Dung cũng hạ cố tới anh hay sao?

Mạc Vân vừa nói vừa ngã người dựa trên ghế và ngẩng mặt nhìn lên trần nhà:

– Chắc chắn là không, vì nàng đã có người khác cao sang hơn!

My Cốt nói:

– Cao sang hơn ư? Vậy là anh không hiểu tôi rồi. Tôi, My Cốt, muốn cưới người con gái ấy làm vợ. Cưới làm vợ, anh nghe rõ chưa? Những người khác có thể giàu sang hơn tôi, nhưng tôi e rằng không có người nào đưa đến cho nàng một giải pháp danh dự hơn của tôi. Chỉ có mình tôi là thương tưởng đến nỗi cô đơn hiu quạnh của nàng. Và với tình hình hiện nay ở đất Pháp, người ta luôn có thể dứt tình với một người đàn bà bất cứ khi nào họ muốn. Chúng ta sẽ có những luật mới về sự ly hôn. Các anh tưởng rằng một cô gái Ý coi trọng tiền bạc của một vị vương giả hơn tài ba của một người nghệ sĩ hay sao? Không! Tôi biết xét giá trị của Kiều Dung hơn các anh. Tôi sẽ tự giới thiệu tôi để làm quen với nàng.

Mạc Vân vừa đứng dậy vừa thân mật bắt tay My Cốt và nói:

– Chúc anh nhiều may mắn.

Linh Đông nhìn cả hai người bằng cặp mắt khinh bỉ. Sau cùng, anh ta buộc lòng phải gượng cười một cách chua chát và nói:

– Này anh My Cốt, tôi e rằng anh sẽ có tình địch đấy.

– Càng hay!

My Cốt vừa đáp buông xuôi vừa đá gót giày và cúi xuống ngắm nhìn hai bàn chân to tướng của mình.

Linh Đông nói:

– Chính tôi cũng ái mộ Kiều Dung. – Có người họa sĩ nào không ngưỡng mộ nàng kia chứ?

– Tôi cũng có thể tỏ tình và xin cưới nàng.

My Cốt nói:

– Đó là sự dại dột của anh, nhưng đối với tôi thì đó là một điều khôn ngoan. Anh không biết cách đầu cơ trục lợi trong công việc tính toán này. Này anh bạn đồng nghiệp, anh còn nhiều thành kiến.

Linh Đông nói một cách cay đắng:

– Chắc anh không muốn nói rằng anh sẵn lòng đầu cơ vợ nhà để làm mồi câu danh vọng đấy chứ?

My Cốt đáp:

– Nhà hiền triết Caton đã từng cho một người bạn mượn vợ. Tôi mến đạo đức và không thể làm gì khác hơn là bắt chước Caton! Nhưng thôi, ta hãy nói chuyện nghiêm chỉnh. Tôi không sợ một tình địch như anh. Anh đẹp trai và khỏe mạnh, còn tôi thì xấu xí; nhưng anh do dự phân vân, còn tôi thì quả quyết. Trong khi anh chỉ lo trau chuốt những lời hay ý đẹp và văn từ hoa mỹ thì tôi chỉ cần nói: “Tôi yêu cô, cô có muốn lấy tôi không?” Như thế, hỡi anh bạn đồng nghiệp, anh cứ làm theo ý anh và chúng ta sẽ gặp lại nhau ở hậu trường sân khấu!

Nói đến đây, My Cốt đứng dậy, vươn hai cánh tay vượn dài thoòng và hai chân ngắn cũn, ngáp dài một cái từ lỗ tai bên này đến tai bên kia, phô bày cả hai hàm răng sâu đen ngòm và khấp khểnh, nhìn xéo Linh Đông một lần cuối với cặp mắt tinh ranh rồi từ từ rời khỏi gian phòng và bước ra ngoài đường. Mạc Vân bèn cười lớn và nói:

– Anh hãy coi đó, bạn đồng nghiệp của anh biết ái mộ Kiều Dung đến bực nào! Chúc anh thành công và chiến thắng trong việc cứu nàng thoát khỏi tay con chó ghẻ ghê tởm đó!

Linh Đông hãy còn quá bực mình để có thể đáp lại, thì bỗng có một người khách bước vào nhà. Đó là Zanoni. Mạc Vân đứng dậy cáo từ và rút lui, để lại hai người trong phòng khách.

Sau khi Zanoni đã nhìn qua bức tranh vẽ và tỏ lời khuyến khích người họa sĩ trẻ tuổi về những khả năng và triển vọng của anh ta, hai người mới bàn luận qua những vấn đề khác. Linh Đông nói:

– Anh đã có lần đưa ra những lời dự đoán chẳng lành về tương lai của tôi, nếu tôi cưới một người đàn bà mà thế gian cho rằng chỉ có thể là một chướng ngại. Người đàn bà ấy sẽ làm che ám tầm nhãn quang nhận xét và ngăn trở những nguyện vọng của tôi. Lời ông nói đó là với sự minh triết do kinh nghiệm đưa đến, hay là với sự sáng suốt của một bộ óc tiên tri?

– Phải chăng cả hai thứ minh triết đó đều liên đới chặt chẽ với nhau? Người giỏi tính toán nhất phải chăng cũng là người có thể giải đáp trong nháy mắt mọi bài toán về số học?

– Ông tránh né câu hỏi của tôi!

– Không phải thế, nhưng tôi muốn giải đáp theo cách thích hợp nhất với sự hiểu biết của anh. Chính vì điều đó mà tôi mới đến nói chuyện với anh hôm nay. Anh hãy nghe đây.

Zanoni chăm chú nhìn thẳng vào mắt Linh Đông và nói tiếp:

– Muốn thực hiện những công việc lớn lao siêu việt, điều kiện cần phải có trước nhất là nhận thức rõ ràng những sự thật liên hệ đến mục đích mà mình theo đuổi. Người học đạo có thể tiên liệu sự thành công và sự thất bại của mình trên những địa hạt nào miễn là anh ta biết rõ những sở trường và sở đoản của mình. Nhưng sự nhận thức được những điểm chân lý này có thể bị rối loạn bởi nhiều nguyên nhân: sự kiêu căng, lòng đam mê, sự sợ sệt, sự lười biếng, sự mê muội không biết rõ những phương tiện cần thiết để thực hiện mục đích. Chỉ có một trạng thái tâm thức đặc biệt mới có thể giúp người ta nhìn thấy chân lý, và trạng thái đó là sự yên tịnh hoàn toàn trong nội tâm. Nay tâm trạng anh đang sôi sục, anh đang nóng lòng muốn biết chân lý. Anh muốn yêu cầu tôi truyền dạy cho anh những điều huyền bí nhất trong cõi thiên nhiên mà không có sự thử thách hay chuẩn bị nào. Nhưng chân lý không thể nhận biết được bởi một tâm hồn chưa được chuẩn bị, chẳng khác nào như mặt trời không thể mọc giữa đêm tối. Vì trong trường hợp đó, tâm hồn tiếp nhận chân lý chỉ là để làm hoen ố nó mà thôi. Đạo gia Jamblique có nói rằng: “Đổ nước vào một cái giếng có bùn chỉ làm dấy bùn lên mà thôi.”

– Vậy tôi phải làm thế nào?

– Anh có những khả năng quí báu có thể giúp anh tiến bộ rất nhiều. Nhưng muốn phát triển nhưng khả năng đó, anh phải tập trung mọi sự ham muốn vào mục đích cần thiết. Quả tim phải dừng nghỉ để cho khối óc có thể hoạt động. Trong lúc này, anh đang đi từ nguyện vọng này sang nguyện vọng khác. Nếu anh có thể gom tất cả mọi tình cảm, tập trung tất cả tâm hồn anh vào một điểm duy nhất thì trí lực và những nguyện vọng của anh sẽ trở nên mạnh mẽ nồng nàn. Kiều Dung hãy còn quá trẻ. Anh không nhận thấy tánh chất cao quí mà những thử thách của cuộc đời sẽ phát triển nơi nàng về sau này. Tâm hồn khiết bạch và thanh cao của nàng sẽ nâng cao tâm hồn anh, cũng như một bài thánh ca nâng cao tâm hồn người nghe lên tận cõi trời. Tâm tình, tánh chất của anh cần có sự điều hòa, giống như một thứ âm nhạc vừa nâng lên cao, vừa xoa dịu tâm hồn. Sự điều hòa đó, tôi xin nhường cho anh nơi tình yêu của nàng!

– Nhưng có chắc gì nàng đã yêu tôi?

– Không, nàng không yêu anh ngay bây giờ, vì nàng đã đặt tình yêu nơi người khác. Nhưng nếu tôi có thể truyền cho anh tình yêu nàng đặt nơi tôi, nếu tôi có thể làm cho nàng nhận thấy anh mới là một người yêu lý tưởng.

– Một quyền năng như thế, người trần gian có thể có được sao?

– Tôi sẽ hiến nó cho anh nếu tình yêu của anh trong sạch, nếu anh tỏ ra có tác phong và đức hạnh xứng đáng với nàng. Vì nếu không được như vậy thì có lý nào tôi lại làm cho nàng bỏ chỗ thật mà tìm chỗ giả hay sao?

Linh Đông nói:

– Nhưng nếu nàng là tất cả những gì anh đã nói với tôi, và nếu nàng yêu anh, thì tại sao anh có thể từ chối một tính cảm quí báu vô giá như thế?

Zanoni kêu lên với một giọng hào hứng lạ lùng:

– Ôi! Lòng người thật ích kỷ và nông cạn thay! Anh lẽ nào không biết rằng tình yêu chân thật là sẵn sàng hy sinh trọn vẹn, hy sinh tất cả vì hạnh phúc của người yêu hay sao?

Và gương mặt của Zanoni thình lình biến sắc:

– Hãy nghe đây! Tôi khẩn khoản yêu cầu anh bởi vì tôi yêu nàng, và tôi sợ rằng đến với tôi cuộc đời nàng sẽ kém hạnh phúc hơn là với anh. Tại sao ư? Anh đừng hỏi tôi điều đó vì tôi sẽ không thể trả lời? Thời giờ đã cấp bách. Anh sẽ không thể trì hoãn quyết định của anh lâu hơn nữa. Trong vòng ba ngày tới đây, anh sẽ không còn thời giờ để quyết định được nữa!

Linh Đông nói trong sự hoài nghi và do dự:

– Nhưng tại sao lại gấp vậy?

– Anh hỏi điều đó tức là anh không xứng đáng với nàng. Những gì mà tôi sắp nói cho anh nghe đây, đáng lẽ chính anh phải biết rồi. Hoàng thân Vệ Công, trái hẳn với anh, là một người cương quyết, mạnh mẽ và không thể lay chuyển. Dẫu cho trong những việc phạm vào tội ác, ông ta cũng không bao giờ bỏ cuộc nửa chừng. Nhưng ông ta còn có một sự đam mê khác mạnh hơn cả sự đam mê tình ái. Đó là sự tham tiền. Sau ngày ý định bắt cóc Kiều Dung bị thất bại, chú ông ta là Giám mục Vệ Báo, người sẽ để lại cho ông ta một gia tài rất lớn, đã gọi ông ta đến để ngăn cấm ông ta không được theo đuổi và giở trò nham nhở với người con gái mà ông ấy đã từng thương yêu và che chở từ lúc còn nhỏ. Nếu Vệ Công cãi lời, ông ta sẽ mất quyền thừa hưởng tất cả những tài sản, đất đai mà vị Giám mục sẽ để lại cho ông ta. Đó là lý do tại sao Vệ Công đình chỉ những âm mưu và kế hoạch săn đuổi Kiều Dung trong một thời gian. Nhưng vào giờ phút này thì lý do chướng ngại đó sẽ không còn tồn tại nữa. Trước khi đồng hồ điểm 12 giờ trưa mai, vị Giám mục sẽ trút hơi thở cuối cùng. Ngay trong lúc này, bạn đồng nghiệp My Cốt của anh đang hội kiến với hoàng thân Vệ Công...

– My Cốt! Ông ta tới đó để làm gì?

– Để biết xem Kiều Dung sẽ được bao nhiêu tiền hồi môn khi nàng rời khỏi tư thất của hoàng thân trong những ngày tới đây.

– Làm sao ông biết được tất cả những việc ấy?

– Anh thật quá khờ dại! Đó là vì những kẻ si tình luôn thức tỉnh ngày đêm không hề ngơi nghỉ khi người yêu của mình đang bị một nguy cơ nào đó đe dọa!

– Và chính ông đã báo động cho vị Giám mục biết việc áy?

– Đúng vậy. Và bổn phận của tôi cũng có thể là bổn phận của anh. Anh đã sẵn sàng trả lời cho tôi chưa?

– Tôi sẽ trả lời vào giờ chót, trong ba ngày nữa.

– Thôi được!... Hãy đình chỉ hạnh phúc của anh lại vào giờ phút chót. Trong ba ngày, tôi sẽ đến để biết xem anh quyết định như thế nào.

– Chúng ta sẽ gặp nhau giờ nào và ở đâu?

– Trước nửa đêm, ở một nơi mà không bao giờ anh có thể ngờ là anh sẽ gặp tôi. Anh sẽ không thể trốn tránh được tôi, dẫu rằng anh có ý định như vậy!

– Khoan đã! Ông trách tôi hay nghi ngờ, do dự, không quyết đoán. Tôi không có lý sao? Làm sao tôi có thể hoàn toàn tuân theo lời ông mà không suy nghĩ chín chắn? Vì lý do gì mà ông chú trọng đến một người lạ như tôi, để bắt tôi phải làm một việc có thể xem là nghiêm trọng nhất đời người? Một người minh mẫn sáng suốt há lại không do dự, suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao người lạ mặt này lại chú trọng đến cuộc đời mình?”

Zanoni đáp:

– Tuy vậy, nếu tôi nói rằng có thể truyền cho anh những bí quyết của khoa pháp môn mà người đời thường coi như một sự lừa bịp. Nếu tôi hứa chỉ dẫn cho anh phương pháp chỉ huy và sai khiến những thần linh ngự trên không gian và ngoài biển cả, tích trữ của cải kho tàng dễ dàng như trẻ con lượm đá sỏi trên bãi cát. Nếu tôi chỉ cho anh cách biến chế các loại dược thảo để luyện thuốc trường sinh, uống vào sẽ kéo dài sự sống trong nhiều thế kỷ. Nếu tôi tiết lộ cho anh biết sự bí mật của phép thôi miên để chế ngự kẻ địch thủ, vô hiệu hóa kẻ đùng bạo lực, và khuất phục đối phương như con rắn khuất phục con chim. Nếu tôi nói rằng tất cả những bí quyết đó hiện nay tôi đều có đủ và có thể truyền lại cho anh, chừng đó hẳn anh sẽ nghe theo và vâng lời tôi mà không chút do dự.

Linh Đông nói:

– Thật vậy, tôi xin nhìn nhận là đúng. Và tôi chỉ có thể giải thích điều ấy bằng những kỷ niệm của thời thơ ấu, do những truyền thống của gia đình...

– Truyền thống do ông nội anh đã ra công khảo cứu, sưu tầm những bí thuật của các đạo sư ApolloniusParacelse, vào thời kỳ Phục Hưng?

Linh Đông nói:

– Lạ thật! ông cũng biết rõ cả những sự việc thầm kín riêng tư của một gia đình không tên tuổi đến mức đó nữa sao?

– Người đi tầm đạo luôn luôn nhận biết một bạn đồng môn, dẫu cho đó là người đạo đồ thấp kém nhất trong môn phái. Anh đã hỏi tôi tại sao tôi chú trọng đến cuộc đời của anh. Lý do ấy tôi chưa có dịp thố lộ với anh. Có một tổ chức huyền môn mà những qui luật và bí pháp vẫn còn là một điều bí mật hoàn toàn đối với những học giả sưu tầm. Theo những qui luật đó, mỗi vị môn đồ phải có bổn phận dìu dắt, giúp đỡ những con cháu hoặc hậu duệ của những đạo đồ đồng môn, dẫu rằng người ấy đã từng thất bại và bỏ cuộc như vị tổ phụ của anh. Chúng tôi phải khuyên lơn và khuyến khích họ hơn nữa, nếu họ yêu cầu. Chúng tôi phải thâu nhận họ làm đệ tử. Tôi là một người còn sót lại của tổ chức huyền môn đó, dù lịch sử của nó đã chìm sâu trong vực thẳm thời gian. Đó là cái lý do tại sao tôi chú ý đến anh trước hết, và có lẽ đó cũng là lý do khiến cho anh, hậu duệ của một vị đạo đồ thuộc môn phái chúng tôi, đã bị thu hút lại gần tôi.

Linh Đông nói:

– Nếu như vậy, nhân danh những qui luật thần bí mà ông tuân theo, tôi yêu cầu ông hãy thu nhận tôi làm đệ tử.

Zanoni đáp một cách hứng khởi:

– Anh muốn yêu cầu việc đó ư? Trước hết, anh hãy biết là cần có những điều kiện nào. Không một đệ tử sơ cơ nào vào lúc nhập môn được giữ trong lòng bất cứ một tình thương hay ước vọng nào ràng buộc người ấy với cõi hồng trần. Người ấy phải hoàn toàn dứt bỏ tình yêu nam nữ, mọi sự tham lam tiền của và những tham vọng khác. Thậm chí người ấy cũng phải diệt trừ cả mọi tham vọng ích kỷ trên địa hạt tinh thần, chẳng hạn như mong ước được mau chóng đạt đạo. Bây giờ, sự hy sinh đầu tiên của anh là phải từ bỏ Kiều Dung. Tại sao vậy? Để vượt qua sự thử thách mà chỉ có một lòng can đảm dũng mãnh nhất mới dám đương đầu, và chỉ có những tâm hồn cao đẹp nhất mới có thể vượt qua. Anh chưa xứng đáng với đường đạo diệu huyền vì toàn bộ tính chất con người anh chỉ là sự sợ sệt!

– Sợ sệt ư?

Linh Đông bất giác kêu lên, sắc mặt lộ vẻ bất bình và ngẩng lên nhìn một cách kiêu hãnh.

– Phải! Và đó là thứ sợ sệt đê tiện, bỉ ổi nhất: sợ sệt dư luận người đời, sợ sệt nhũng kẻ như My Cốt và Mạc Vân; sợ sệt chính nhưng cơn bộc khởi của anh, dầu là những cơn bộc khởi hào hùng nhất. Nói tóm lại, đó là sự sợ sệt của những kẻ tiểu nhân, một sự sợ sệt mà những tâm hồn quảng đại không bao giờ có!

Nói đến đây, Zanoni đột ngột từ giã ra về. Chàng họa sĩ trẻ bị chạm lòng tự ái nhưng vẫn không chịu thuyết phục. Anh ta còn ngồi lại suy tư một mình cho đến lúc chợt giật mình khi chuông đồng hồ điểm giờ.

Lúc đó, nhợt nhớ lại lời dự đoán của Zanoni về cái chết của vị Giám mục và muốn biết xem lời tiên tri đó có đúng không, anh ta bèn phóng ra đường chạy một mạch đến tòa lâu đài của vị Giám mục. Năm phút trước thời điểm giữa trưa, vị Giám mục đã từ trần sau một cơn bịnh bộc phát chưa được nửa giờ.

Giật mình kinh hãi, anh ta bèn quay gót trở về, và khi đi ngang qua cầu Chiaja, anh ta nhìn thấy My Cốt vừa bước ra từ tư thất của hoàng thân Vệ Công.

HOI THU BA



41. BÀ DÌ XIN XUẤT GIA

Khi Phật còn lưu lại thành Ca-tỳ-la-vệ, bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã ba lần xin Phật xuất gia, nhưng Phật đều từ chối.

Bà vẫn không bỏ ý định xuất gia. Bà lấy làm buồn rầu lắm, nên không mặc những y phục tốt đẹp nữa. Bà lấy hết đồ nữ trang quý giá mà ban phát cho các cô hầu. Và đối với ai bà cũng khiêm nhượng, từ ái.

Bà muốn tự chứng tỏ là mình cũng có thể sống cuộc sống xuất gia khắc khổ như nam giới.

Một thời gian sau, khi Phật đã trở lại thành Tỳ-xá-ly, bà liền tự ý cắt tóc, mặc đồ rất thô sơ, đi bộ chân trần mà tìm đến thành Tỳ-xá-ly, cùng với 50 người phụ nữ khác cũng có tâm nguyện xuất gia.

Khi lên đường, họ không mang theo bất cứ vật thực gì khác, ngoài một cái bát để xin cơm. Họ vừa đi vừa khất thực dọc đường, theo đúng cung cách của các vị tỳ-kheo.

Khi đến nơi, chân họ sưng phù lên, đau nhức, người mệt lả, nhưng họ vẫn đến thẳng trước tinh xá của Phật mà đứng.

Ngài A-nan khi ấy đã là thị giả của Phật, vừa đi đến gặp bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề với đoàn người của bà trong tình cảnh ấy thì hết sức ngạc nhiên, liền hỏi rằng:

"Bẩm nương nương! Tại sao bà lại đến đây? Tại sao các bà lại ăn mặc như thế này? Bà đến đứng trước cửa tinh xá để làm gì?"

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đáp:

"Chúng tôi đến đây để cầu xin Phật cho xuất gia, nhưng tôi không dám vào. Vì khi ở thành Ca-tỳ-la-vệ tôi đã ba lần thưa xin mà Phật không thuận. Nay chúng tôi đi bộ chân trần, vượt đường xa mà đến đây là muốn chứng tỏ rằng phụ nữ cũng có thể chịu đựng được những khó nhọc như nam giới, kính mong đức Phật thuận cho chúng tôi xuất gia."

Ngài A-nan vô cùng cảm động trước cảnh tượng đó và cũng hết sức cảm phục ý chí của những phụ nữ này. Ngài hứa sẽ vào thưa xin với Phật giúp cho họ.

Ngài A-nan vào ra mắt Phật, thưa hỏi rằng:

"Bạch đức Thế Tôn, nếu một người phụ nữ tu hành chân chánh, họ có thể chứng đắc các quả vị giải thoát được chăng?"

Phật đáp: "Được."

Ngài A-nan liền hỏi tiếp:

"Thế thì tại sao Phật không thuận cho nữ giới xuất gia?"

Đức Phật lặng thinh không đáp.

Ngài A-nan lại thưa rằng:

"Bạch đức Thế Tôn! Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề, nhũ mẫu đáng kính của ngài, hiện đã đến đây, đang đứng trước cổng tinh xá này. Bà cùng với 50 phụ nữ khác đều có ý nguyện xuất gia. Các vị đã đi chân trần từ Ca-tỳ-la-vệ đến đây. Các vị đã thực hành đời sống không nhà, khất thực ăn theo đường mà đến đây. Bây giờ, tất cả đều mỏi mệt, rã rời, nhưng vẫn không nghỉ, đang đứng chờ trước cổng để cầu xin Phật thuận cho xuất gia.

"Bạch Thế Tôn! Bà ấy thật là người phụ nữ đáng kính phục. Thuở ngài còn thơ dại, bà thương yêu như con ruột. Lo lắng, chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ cho ngài. Bà cũng hết lòng mà phụng sự đức vua Tịnh-phạn cho đến lúc băng hà. Nay bà nhận ra chân lý của đạo ngài mà phát nguyện tu theo. Nguyện vọng ấy rất chính đáng, xin Phật ưng thuận cho."

Ngài A-nan nói rất hay. Trước ngài chứng minh ý chí xuất gia, chịu đựng gian khổ của các bà, sau lại đem tình cảm mẹ con từ thuở nhỏ mà nhắc với Phật, chính là điều Phật đã suy nghĩ nhiều nhất, nên Phật không thể chối từ được nữa.

Không phải đức Phật không biết những điều mà A-nan vừa nói. Nhưng ngài hiểu rằng nếu để tình cảm riêng tư lấn át việc đại sự thì về sau này sẽ hại nhiều hơn lợi.

Vì thế, về sau Phật mới nói với A-nan rằng:

"Này A-nan! Không phải ta không muốn cho nữ giới xuất gia. Nhưng ta biết nếu thuận cho nữ giới bước vào tăng đoàn thì thời gian chánh pháp trụ thế sẽ giảm mất đi 500 năm. Như vậy là một điều thiệt thòi rất lớn cho những chúng sanh sau này vậy."

Trở lại việc khi ấy, Phật bảo A-nan rằng:

"Được, ta thuận cho các vị ấy xuất gia, nhưng với điều kiện là phải chấp nhận những giới luật khắt khe hơn nam giới. Và trước mắt phải chấp nhận 8 điều cung kính như sau:

"Thứ nhất, tỳ-kheo ni dù lớn tuổi hoặc tu lâu đến đâu, cũng đều phải chào hỏi cung kính đối với một vị tỳ-kheo tăng, cho dù vị ấy còn nhỏ tuổi hoặc chỉ mới thọ giới.

"Thứ hai, hàng năm vào mùa an cư, tỳ-kheo ni phải đến gần nơi tỳ-kheo tăng an cư để nương nhờ sự giáo huấn.

"Thứ ba, hàng tháng tỳ-kheo ni phải giữ đủ hai kỳ bố-tát, và phải thỉnh vị đại diện của tỳ-kheo tăng đến mà ban lời giáo huấn, khích lệ cho.

"Thứ tư, vào cuối mùa an cư hàng năm, tỳ-kheo ni phải dự lễ tự tứ, cầu xin các vị tỳ-kheo tăng và các tỳ-kheo ni khác chỉ lỗi của mình ra để sám hối, tu tập.

"Thứ năm, khi tỳ-kheo ni phạm vào giới luật thì phải sám hối trước cả nhị bộ tăng, tức là có đủ tỳ-kheo và tỳ-kheo ni chứng giám.

"Thứ sáu, nữ giới trước khi xuất gia phải có một thời gian tập sự, thử thách, và khi xuất gia thọ đại giới thì phải cầu đủ nhị bộ tăng.

"Thứ bảy, tỳ-kheo ni không được phép nói lỗi của tỳ-kheo tăng, cũng không được chỉ trích những chỗ yếu kém.

"Thứ tám, tỳ-kheo ni dù uyên bác, thông hiểu đến đâu cũng không được giảng dạy cho tỳ-kheo tăng."

Ngài A-nan vâng lời Phật, ra ngoài tuyên đọc các điều kiện ấy cho bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề và 50 vị kia cùng nghe.

Các bà mừng đến rơi nước mắt, xin hứa sẽ chấp nhận tất cả những điều kiện đó và thọ trì suốt đời.

Khi A-nan vào thưa lại rằng các bà chấp nhận thọ trì các pháp cung kính ấy và giới luật tỳ-kheo ni cho đến trọn đời. Phật liền hoan hỷ nhận cho tất cả được xuất gia.

Khi ấy, Phật sai bố trí nơi riêng biệt trong một khu vườn xoài để các vị tu tập, và sai đại đức Xá-lỵ-phất đến chỉ dạy đạo lý.

Giáo đoàn tỳ-kheo ni gồm 51 vị, do bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đứng đầu, là giáo đoàn tỳ-kheo ni đầu tiên trong lịch sử.

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề là vị Ni trưởng đầu tiên hết. Bà tu tập rất tinh tấn, đạt những kết quả tiến bộ rõ rệt. Bà thọ đến 120 tuổi, và khi bà viên tịch, chính đức Phật cũng có lời ngợi khen bà rằng:

"Xuất gia tu đạo và chứng đắc thánh quả là việc làm của đấng trượng phu. Nhưng bà dì của ta đã làm được việc ấy, bà cũng xứng đáng gọi là đấng trượng phu vậy."

42. NGƯỜI TỚ GÁI CÚNG PHẬT

Khi ấy, Phật đang ở tinh xá Kỳ Viên, gần thành Xá-vệ.

Trong thành có một thiếu nữ con nhà nghèo khó, bị cha mẹ bán đi làm đầy tớ mãi mãi cho một nhà kia.

Hôm ấy, cô tớ gái này mang cơm ra ruộng cho chủ. Trên đường, cô gặp Phật đang đi khất thực. Vừa trông thấy dáng Phật từ xa, cô bỗng thấy trong lòng hoan hỷ, vui mừng một cách kỳ lạ.

Cô suy nghĩ rằng:

"Vị sa-môn này chắc chắn là đức Phật rồi. Ta đã từng nghe biết bao người xưng tụng về ngài, tán thán đức độ, trí tuệ của ngài. Nhưng làm thân tôi tớ như ta đâu có dịp nào được tận mắt nhìn thấy ngài. Hôm nay quả là dịp may muôn thuở, ta đã được nhìn thấy ngài trên đường này rồi. Ta phải đến gần ngài, lễ bái ngài mới được."

Nghĩ vậy rồi, cô liền rảo bước đến gần Phật. Trong khi ấy, cô lại nghĩ:

"Ước chi ta có được vật gì để cúng dường ngài. Thân ta làm tôi tớ, đến miếng ăn cũng phải nhờ nơi chủ, biết lấy gì mà cúng dường ngài."

Bỗng cô chợt nhớ đến bát cơm mang ra ruộng cho chủ. Cô liền suy nghĩ:

"Sẵn bát cơm này, hay ta mang đến cúng dường ngài. Nếu ta làm việc này chắc sẽ bị chủ quở phạt nặng nề, còn đánh đập nữa không chừng. Nhưng dù vậy ta cũng lấy làm vui lắm, vì suốt cuộc đời tôi tớ của ta, đâu dễ có được một dịp may nào khác mà cúng dường ngài."

Cô suy nghĩ như vậy rồi thì quyết lòng dâng cơm cúng Phật. Vừa khi ấy thì cô đến gần đức Phật.

Cô đến trước Phật, lấy hết lòng thành kính mà lễ bái. Khi ấy cô không còn biết đến gì khác ngoài việc lễ Phật. Cô không lo lắng về việc sẽ bị quở phạt, cô cũng không còn nhớ đến thân phận tôi tớ hèn hạ của mình. Cô chỉ một lòng thành kính lễ Phật.

Lạ thay, khi cô lễ Phật xong thì trong tâm trí cô bỗng tràn ngập một niềm vui sướng đến lạ thường. Cô chưa từng cảm nhận được một niềm vui như thế trong đời. Và cô vui đến nỗi khuôn mặt cô bừng sáng, rạng rỡ niềm vui ấy. Cô liền hết sức thành kính và thanh thản mà dâng cơm lên cho Phật.

Phật thọ nhận lễ cúng dường của cô xong, cô liền từ biệt mà đi đến chỗ người chủ.

Người chủ hỏi cơm đâu, cô thành thật mà kể lại sự việc mình mang cơm cúng Phật, và nói rằng mình sẵn lòng nhận mọi sự trách mắng, quở phạt.

Nhưng người chủ đã nhận thấy phong thái của cô hôm nay rất ung dung khác thường. Cô không có dáng vẻ rụt rè, sợ sệt, u tối như thường ngày. Trông cô lại rạng rỡ, vui sướng như người vừa được món châu báu quý giá nhất trên đời này vậy.

Người chủ không trách phạt cô. Ông nói:

"Không, ta không phạt em đâu. Em đã khôn ngoan hơn cả ta đây. Em không sở hữu một món gì trong người, mà còn phát tâm cúng dường cho Phật được một bữa cơm, không sợ đòn roi, trách mắng. Nhờ phước ấy ta thấy em thanh thản, vui vẻ ngay trong hiện tại. Còn ta đây, giàu có hơn em nhiều mà chưa từng làm được việc có ý nghĩa như thế. Rồi đây ta sẽ noi gương em mà cúng dường Phật. Còn bây giờ, ta tuyên bố trả tự do cho em. Em xứng đáng được thoát khỏi đời nô lệ. Em được quyền muốn đi đâu, làm gì tùy ý."

Cô gái vui mừng hớn hở, chào chủ nhà mà nói rằng:

"Nếu ông đã cho phép, tôi sẽ đến tinh xá Kỳ Viên mà cầu đức Phật nhận tôi làm đệ tử."

Người chủ vui vẻ chấp nhận. Cô gái đến tinh xá Kỳ Viên, được Phật nhận cho xuất gia, theo ni chúng mà tu tập. Cô nghe Phật thuyết pháp và chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán, trở thành một trong những vị cao quý nhất của chúng tỳ-kheo ni.

43. ƯƠNG-QUẬT-MA-LA CẢI TÀ QUY CHÁNH

Thành Xá-vệ có một thanh niên tư chất khác thường, tên là Vô Hại.

Anh sinh ra trong một gia đình trung lưu, vốn thông minh và có sức khỏe hơn người. Khi lớn lên, anh luôn khắc khoải tìm hiểu về ý nghĩa cuộc sống, nhưng vẫn còn bế tắc, chưa tìm được chỗ nương tựa tâm hồn vững chắc.

Không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, với tâm trạng bế tắc anh lên đường tìm thầy học đạo. Anh đến với một vị đạo sư nọ, cũng có khá đông môn đệ.

Nhờ thông minh và có quyết tâm học hỏi để mong giải quyết được những thắc mắc của mình, nên anh học rất nhanh. Nhập môn chưa bao lâu mà mọi lý lẽ do thầy truyền dạy, anh đều tiếp thu nhanh chóng hết.

Các môn đồ cũ thấy vậy liền đem lòng ganh ghét, họ sợ anh sẽ chiếm được lòng yêu của thầy rồi vượt lên trên bọn họ. Vì thế, họ đem lời gièm pha, nói xấu anh với vị tôn sư.

Sự đời đối với những kẻ tầm thường vẫn thế, vị tôn sư ấy dẫu nghe một lần thì chẳng tin, nhưng cứ nghe mãi rồi cũng sinh lòng nghi, mà cho anh là tên phản đồ.

Nhưng Vô Hại đã thông minh lại có sức khỏe, nên chẳng dễ gì hại được đến anh.

Bọn ác đồ kia liền bàn với thầy rằng:

"Muốn trừ Vô Hại ra khỏi môn phái ta, có một mưu kế này. Thầy hãy nói với hắn ta là thầy còn nhiều điều huyền bí, cao siêu chưa dạy hết. Nếu hắn ta có thể dâng cho thầy một xâu chuỗi kết bằng 100 lóng ngón tay của 100 người khác nhau thì thầy sẽ giảng dạy bí pháp cho. Muốn chặt lấy ngón tay người khác, tất nhiên hắn phải giết người hoặc đánh nhau chí tử mới được. Như vậy, chỉ trong ít lâu, thế nào hắn cũng bị người khác giết mất mà thôi. Thầy trò ta khỏi phải mang tiếng giết người vậy."

Ông thầy ấy cũng thuộc loại tà sư, nên nghe lời ấy, liền nói với Vô Hại như vậy.

Vô Hại vốn tin lời thầy, liền nai nịt, cầm vũ khí, tới một chỗ đường vắng mà mai phục, chờ có người đi ngang qua thì đón lấy mà chặt ngón tay.

Qua ít lâu thì anh đã được chừng vài chục lóng ngón tay. Trong số đó, có người bị anh giết, có người chỉ bị chặt ngón tay thôi. Vì anh không chủ đích giết người, nhưng có khi người kháng cự mạnh quá thì anh buộc phải giết.

Tiếng đồn ra khắp nơi, người ta gọi anh là Ương-quật-ma-la, nghĩa là người đeo vòng hoa kết bằng lóng ngón tay. Đoạn đường có mặt anh không còn ai dám đi lại nữa.

Túng thế, anh phải chuyển sang đi rình rập nhiều nơi khác, và trở thành nỗi kinh hoàng cho nhân dân trong thành.

Vua Ba-tư-nặc đã nghe báo sự việc và cho quân tìm bắt. Nhưng anh ta rất khôn ngoan, trốn tránh tài tình lắm. Hơn nữa, thấy anh ta hung dữ, lại vô cớ tìm giết người như thế nên quân binh đều sợ hãi, chỉ tìm kiếm qua loa. Họ sợ rủi gặp mà đánh không hơn anh thì phải chết uổng mạng.

Đang khi ấy, đức Phật vẫn đi khất thực ở khắp mọi nơi trong thành như thường lệ. Ngài không lộ vẻ gì sợ sệt như hết thảy dân chúng trong thành.

Ngày nọ, ngài đang đi khất thực trên một con đường ở phía Nam thành Xá-vệ thì có người đến báo:

"Bạch đức Thế Tôn! Xin ngài đừng đi tiếp con đường này nữa. Sáng nay có người thấy Ương-quật-ma-la xuất hiện ở đó."

Phật cười hiền hòa, cảm ơn người ấy và nói:

"Nơi xóm ấy có người đang chờ để được cúng dường ta, ta không thể không đến."

Rồi ngài vẫn tiếp tục tiến bước, như không có gì xảy ra.

Những người dân thành Xá-vệ hẳn không thể biết được rằng khi còn niên thiếu ngài đã từng vô địch về tất cả các môn võ nghệ, quyền cước.

Đến một quãng vắng, ngài bỗng nghe có tiếng hô rất dữ tợn:

"Dừng lại!"

Ngài vẫn đều đều tiến bước.

"Dừng lại!"

Tiếng hô lớn bây giờ đã thành một tiếng quát rất to, có thể làm chấn động lòng người. Nhưng Phật vẫn thản nhiên tiến bước.

Quả đúng là Ương-quật-ma-la. Anh ta xách một con đao to, đã đuổi theo đến gần Phật và hét lớn:

"Ông kia, ta bảo ông dừng lại, tại sao không dừng?"

Phật vẫn không quay lại, nhưng ngài cất giọng trong trẻo nói đủ cho anh ta nghe từng tiếng:

"Ta đã dừng lại lâu lắm rồi."

Và bỗng nhiên, Ương-quật-ma-la không làm sao bắt kịp ngài. Trước mặt, anh thấy rõ vị sa-môn hiền hòa đếm từng bước chân rất thong thả, nhưng anh đã cố chạy nhanh hết sức mình mà không sao đuổi kịp.

Trước sự việc ấy, và nghe câu trả lời khó hiểu của Phật, Ương-quật-ma-la bỗng nhiên thấy đầu óc hoang mang kỳ lạ. Anh ta vừa thở hổn hển vì mệt, vừa nói:

"Dừng lại, tôi xin ngài dừng lại."

Và bây giờ thì đức Phật thực sự dừng bước, quay lại từ hòa nhìn anh, không có chút gì bối rối hay sợ hãi.

Ương-quật-ma-la đã mất hết vẻ hung hãn. Anh đến trước Phật, dừng một chút rồi hỏi:

"Ngài là ai? Vì sao ngài vẫn đi rất nhanh mà nói là đã dừng lại từ lâu rồi? Câu nói ấy thực ra có ý nghĩa gì?"

Đức Phật biết là đã đến lúc có thể giáo hóa cho Ương-quật-ma-la, ngài liền nói:

"Ta là ai điều đó không quan trọng. Ta nói với anh như thế là vì ta đã dừng việc tạo ra ác nghiệp từ lâu lắm rồi. Chỉ có anh vẫn còn chưa dừng đó thôi."

Câu nói này làm cho Ương-quật-ma-la cảm thấy bối rối, sợ hãi. Nhưng đồng thời anh cũng cảm thấy như mình đã gặp được điều mà từ lâu ra công tìm kiếm.

Phật ôn tồn nói tiếp:

"Trên đời này, bất cứ ai cũng đều tham sống, sợ chết. Vì thế mà mạng sống là rất đáng quý. Người ta nói anh là một kẻ sát nhân, nhưng ta không tin là anh cố ý giết người. Phải chăng anh có những nguyên nhân, động lực sâu xa nào đó nên phải làm chuyện không nên làm ấy? Anh có thể cho ta biết nguyên nhân dẫn đến việc làm của anh chăng?"

Ương-quật-ma-la liền kể cho Phật nghe mọi việc. Phật nói:

"Này anh bạn, nếu vì muốn hiểu được chân lý trong cuộc đời mà phải giết người, chặt ngón tay người, thì cuộc sống này sẽ như thế nào? Như vậy, anh có nghĩ là mọi người sẽ yêu thích, kính trọng loại chân lý theo kiểu đó chăng?"

Ương-quật-ma-la như chợt bừng tỉnh ngộ. Anh hiểu là mình đã gặp được bậc đạo sư từ lâu tìm kiếm. Anh hỏi:

"Thưa ngài, vậy theo ngài thì làm thế nào để hiểu được chân lý trong cuộc đời này?"

Đức Phật đáp:

"Điều mà tất cả mọi người đều nhắm đến trong cuộc sống là hạnh phúc. Chân lý đơn giản nhất là làm sao để đạt được hạnh phúc một cách chân thật, về lâu dài cũng như ngay trong giây phút hiện tại này.

"Khi anh hung hăng đuổi theo ta, lúc ấy anh không có hạnh phúc. Khi ta lấy lòng từ bi mà tiếp chuyện cùng anh, ta đang có hạnh phúc.

"Cũng vậy, cuộc sống chân chính theo con đường mà bậc thánh đã tìm ra và chỉ dạy sẽ đưa đến hạnh phúc trong hiện tại và lâu dài mai sau. Người biết tin nhận và sống theo con đường chân chính ấy là người hiểu được chân lý."

Vốn rất thông minh, Ương-quật-ma-la lãnh hội ngay những lời Phật nói. Anh quỳ xuống trước đức Phật, cung kính lễ bái và nói:

"Kính bạch ngài! Cho dù con vẫn chưa biết ngài là ai, nhưng điều đó quả là không quan trọng, như ngài đã nói. Chỉ bằng vào những điều ngài đã chỉ dạy, xin ngài vui lòng nhận con làm đệ tử, và truyền dạy con đường chân chánh để con noi theo."

Khi ấy, có ba vị tỳ-kheo là A-nan, Kim-tỳ-la và Ưu-ba-ly vừa đến. Họ nghe Phật đi khất thực vào chỗ nguy hiểm nên vội đến vì sợ ngài bị hại.

Phật nhận Ương-quật-ma-la làm đệ tử, cùng theo về tinh xá Kỳ Viên. Bấy giờ, Ương-quật-ma-la mới biết là mình đã gặp Phật.

Dân chúng trong thành Xá-vệ đều xôn xao khi nghe tin Phật thu phục Ương-quật-ma-la. Nhiều người không tin, nhưng khi tất cả đều thấy anh đắp y vàng, mang bình bát đi khất thực cùng với chúng tỳ-kheo thì họ mới thật sự tin.

Vua Ba-tư-nặc nghe được chuyện ấy thì rất vui mừng, và càng thêm kính trọng Phật pháp.

Nhờ nỗ lực tu tập, không bao lâu sau Ương-quật-ma-la tiến bộ rất nhanh, nên được Phật cho đi khất thực một mình.

Có kẻ nhận ra ông là tên sát nhân ngày trước, bèn la lên: "Sư hổ mang! Sư hổ mang!" Rồi lấy đá mà ném ông chảy máu đầu, bể bình bát. Ông vẫn không kháng cự hoặc phàn nàn, chỉ lặng thinh quay về.

Phật biết chuyện, gọi Ương-quật-ma-la đến, dạy rằng:

"Đó là ác nghiệp con đã gieo, nay phải gánh lấy. Hãy nhẫn nhục, kiên trì tu tập, đừng gieo thêm hờn oán nữa. Rồi đây sẽ có lúc mọi người hiểu và kính trọng con."

Quả thật, không bao lâu sau thì cả thành Xá-vệ đều hiểu được anh Ương-quật-ma-la ngày trước đã thật sự cải tà quy chánh.



44. NGOẠI ĐẠO BÀY MƯU HẠI PHẬT

Từ khi đạo Phật lan truyền ngày càng rộng rãi, thì dân chúng đa phần không còn tin vào giáo thuyết xằng bậy của các phái ngoại đạo nữa. Những kẻ cuồng tín theo ngoại đạo vì thế đâm ra căm ghét Phật, nhưng không biết làm cách nào để hãm hại.

Họ cho người ở rãi rác quanh vườn Cấp Cô Độc, mong tìm thấy được những chỗ sai sót, lỗi lầm của chư vị tỳ-kheo để mà công kích, phỉ báng. Nhưng đã lâu lắm rồi mà họ chẳng thấy được gì, vì các vị sống nghiêm trì giới luật, mọi hành vi hàng ngày đều oai nghi, mẫu mực.

Khi ấy, những kẻ ngoại đạo ác tâm này mới bàn mưu với nhau dùng một nữ tín đồ của họ tên là Sanh-ca để bôi nhọ Phật.

Âm mưu của họ là thế này. Mỗi ngày, vào giờ Phật thuyết pháp xong, những vị đến nghe giảng từ trong tinh xá Kỳ Viên lui ra, thì cô Sanh-ca lại đi tới vườn Cấp Cô Độc, mặc áo hồng lộng lẫy, hai tay cầm đầy hoa. Tình cờ có ai hỏi đi đâu, thì cô đáp theo lối úp úp, mở mở: "Hỏi mà làm gì?"

Rồi cô đến gần vườn cây, không đi vào tinh xá của Phật, mà chờ lúc vắng người rồi đi thẳng lại với bọn tà sư ngoại đạo, ở đó sáng đêm. Rạng đông cô trở lại cửa tinh xá, cố ý làm cho những tín đồ đi sớm gặp cô, rồi cô chậm bước đi về.

Có ai hỏi cô: "Đi đâu về sớm vậy?" Thì cô cũng đáp ỡm ờ rằng: "Hỏi mà làm gì?"

Qua tháng sau, cô đổi cách trả lời. Hễ chiều tối, cô nói rằng: "Tôi đến vườn Cấp Cô Độc, đức Phật đang chờ tôi." Đến sáng lại nói: "Tôi ở trong vườn Cấp Cô Độc ra, tôi đã ở đó suốt đêm với Phật."

Cũng có những người dại dột tin theo lời cô và ngờ rằng hành vi của Phật không đúng đắn.

Được sáu tháng sau, cô lấy vải độn dần vào bụng cho to lên, để người ta ngỡ rằng cô có thai. Mấy kẻ tầm thường khi ấy đều cho rằng đức hạnh của Phật chỉ có vẻ ngoài mà thôi.

Đủ chín tháng, cô lấy một cái gáo dừa độn trước bụng, có vải bao quanh cho thật lớn, rồi cô giả như cách đi đứng mệt mỏi, chậm chạp. Một buổi chiều, cô vào giảng đường nhằm lúc Phật đang thuyết pháp. Cô nhìn thẳng lên chỗ Phật mà nói lớn rằng:

"Thầy giảng đạo cho người ta nghe rất êm dịu, ngọt ngào. Thế mà em đây có thai với thầy, gần ngày sanh nở lại chẳng có chỗ để sanh con. Thầy cũng không cho em gì hết. Thầy có xấu hổ mà không đến săn sóc em, ít nhất thầy cũng phó thác em cho một người đệ tử. Sao thầy lại nở không nhìn đến em, cũng không lo cho đứa trẻ sắp lọt lòng. Thầy muốn vui hưởng ái dục mà không muốn lãnh trách nhiệm hay sao?"

Đức Phật thản nhiên, ngài nói:

"Nhà ngươi nói thật hay nói dối, chỉ có ngươi biết, ta biết mà thôi."

Cô la lớn:

"Tôi không nói dối."

Đức Phật vẫn yên tĩnh như thường. Nhưng khi ấy, trong đại chúng bắt đầu xôn xao. Những người mới theo đạo thì phân vân, ngỡ ngàng. Những kẻ đã tin sâu Tam bảo thì biết đây là chuyện bịa đặt. Họ la ó, quát mắng cô, đòi đuổi cô ra khỏi giảng đường. Có mấy người cư sĩ nóng tính không dằn được, xông tới muốn tóm lấy cô. Trước đám đông phẫn nộ ấy, cô hoảng quá không còn giả vờ uể oải, mỏi mệt được nữa mà vùng chạy rất nhanh. Nhưng do sợ quá, luống cuống thế nào mà vấp chân té sấp xuống. Bị dằn mạnh, sợi dây ràng của cô đứt mất. Cô vừa lồm cồm đứng dậy thì vải độn rớt xuống, rồi gáo dừa rơi lăn tròn trên mặt đất.

Cả giảng đường đều ồ lên, hiểu ra sự thật. Cô tái mặt, run lẩy bẩy, chân bước không được nữa. Có mấy người thương hại, đến dìu cô ra khỏi tinh xá.

Phật tiếp tục buổi thuyết pháp. Ngài giảng với mọi người rằng sự vu khống là xuất phát từ những đầu óc đen tối, hận thù, và chúng không thể tồn tại lâu dài, lấn át chân lý được. Vì thế, cách tốt nhất để chống lại mọi sự vu khống là sống trong sạch và vững tin nơi sự trong sạch. Chỉ những người thiếu đức tin mới bị lừa gạt bởi các trò vu khống.

45. NGOẠI ĐẠO VU OAN CHO PHẬT

Sau khi tổ chức hãm hại Phật bằng mưu kế gian trá chẳng thành công, bọn ngoại đạo vẫn không từ bỏ tâm ác độc.

Chúng suy nghĩ rằng, những việc gian trá nếu đưa ra ánh sáng, nơi chỗ đông người thì rất dễ bại lộ. Như vậy, muốn hại Phật cần phải thực hiện những âm mưu đen tối và mờ ám, khiến cho người ta không thể biết được đâu là sự thật, mới có thể làm hại thanh danh của Phật được.

Chúng lại nghĩ, đối với đức Phật mọi người đều hết lòng kính phục, nay không dễ gì lay chuyển niềm tin ấy. Như vậy, muốn hại Phật cần phải nhắm vào các đệ tử của ngài thì mới dễ có kết quả. Khi đệ tử đã mang tiếng xấu, thì thanh danh của thầy cũng không thể trọn vẹn được.

Sau khi bàn tính rất kỹ với nhau như vậy, bọn ngoại đạo mới liên kết cùng nhau mà thực hiện một âm mưu vô cùng hiểm độc và dã man.

Chúng bỏ tiền thuê một nhóm thanh niên hư hỏng, một đêm kia bí mật chặn đường giết chết một nữ tín đồ của chúng là cô Xuân-đà-ri, rồi đem chôn xác cạnh bờ rào của tinh xá Kỳ Viên.

Tiếp tục vở kịch, sáng sớm chúng cho người giả cách đi tìm cô, đến đó thấy dấu đất mới lấp khả nghi thì đào lên, liền gặp xác chết cô Xuân-đà-ri chôn sơ sài, vội vàng nơi ấy.

Rồi những người này hô hoán lên, báo với quan binh cùng đến chứng thực: một cô gái trẻ bị giết một cách ám muội rồi chôn xác ngay sát bờ rào của tinh xá Kỳ Viên.

Dựng lên sự việc như thế rồi, chúng mới cho người đi rêu rao khắp nơi rằng: đệ tử của Phật hãm hiếp gái tơ cho đến chết rồi giấu xác nơi ven bờ rào tinh xá.

Cả thành Xá-vệ lại một phen xôn xao, chấn động. Những người vững tin Tam bảo thì đoan chắc đây là âm mưu của ngoại đạo, nhưng đối với nhiều người khác thì đây quả là việc đáng ngờ.

Họ suy luận rằng, Phật dẫu là bậc thánh triết, thanh tịnh, nhưng trong số đệ tử rất đông của ngài, nếu có lẫn một vài kẻ xấu cũng là chuyện có thể tin được. Hơn nữa, chứng cứ rành rành, nếu hung thủ là ai khác, thì tại sao lại phải mang xác đến chôn ở tinh xá Kỳ Viên?

Một số kẻ dại dột hơn thì lấy làm phẫn nộ, cho rằng Phật chỉ giả danh đạo đức, trong khi dung túng đệ tử của mình làm chuyện vô lương.

Kẻ nói này, người nói nọ, nhưng tựu trung là dư luận rất bất lợi cho Phật và chư tăng. Ngày ngày, các vị đi khất thực phải hứng chịu những ánh mắt soi mói, nghi ngờ, thậm chí có khi khinh bỉ nữa.

Trong khi đó, thái độ của Phật cũng không khác gì lần vu khống trước. Ngài vẫn thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Khi dư luận đã trở nên khá căng thẳng, ngài liền triệu tập tất cả tăng chúng đến mà huấn thị rằng:

"Những điều vu khống không thể tồn tại lâu, không thể lấn át ánh sáng của sự trong sạch. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải biết vững lòng tin ở chính sự trong sạch của mình, của tăng đoàn.

"Ta biết chắc tất cả các ngươi hoàn toàn vô tội trong việc này, nhưng mỗi người phải tự biết nhẫn nhục chịu đựng, không được có phản ứng nào trái với giáo pháp của ta. Điều cần nhất là tất cả các ngươi đều phải vững tin vào sự trong sạch của Tăng-già, không được hoài nghi lẫn nhau, vì như vậy là tự làm hại lấy mình. Như ta đã nói, chỉ những người thiếu đức tin mới bị lừa gạt bởi các trò vu khống.

"Và ta cũng nhắc lại, sự vu khống dối trá không thể tồn tại lâu dài, không thể lấn át ánh sáng của sự trong sạch chân thật."

Nghe lời huấn thị của đức Phật, hết thảy chư tăng đều ghi nhớ. Vì vậy, cho dù là một nỗi oan tày trời nhưng các vị không hề tỏ thái độ bực dọc hay phẫn uất.

Lúc ấy, trưởng giả Tu-đạt trong thành Xá-vệ rất lo lắng về những dư luận không hay cho tăng đoàn ngày càng lan rộng. Thậm chí bọn ngoại đạo đã bắt đầu công khai xách động một số người nộp tờ cáo trạng lên vua Ba-tư-nặc, đòi trục xuất Phật và chư tăng ra khỏi nước.

Trưởng giả Tu-đạt vốn hoàn toàn đặt niềm tin nơi Tam bảo, nên ông không hề nao núng trước sự vu khống này. Ông âm thầm tập hợp một số người tốt để cùng nhau tìm cách làm rõ sự thật.

Họ bỏ tiền thuê người đi dò la ở khắp các hang cùng ngõ hẻm trong thành, nhất là những nơi mà bọn xấu hay tụ tập để nhậu nhẹt, chè chén.

Và quả thật, cuối cùng họ đã thành công. Một hôm họ nghe được bọn người giết thuê uống rượu say rồi cãi vả nhau. Nguyên nhân là vì chúng chia tiền nhận được chẳng đồng đều. Những người do thám lập tức báo ngay với Tu-đạt. Ông đích thân báo quan binh đến vây bắt tại chỗ, nhờ có nhiều người chứng nơi ấy cũng đều nghe bọn chúng cung khai sự việc.

Bị bắt về cửa quan, toán giết thuê này không dám dấu giếm nữa, liền khai hết sự vụ đã nhận tiền, giết người rồi đem chôn ở tinh xá Kỳ Viên. Chúng cũng khai rõ những người đã bỏ tiền thuê chúng làm việc dã man ấy.

Như vậy là thành Xá-vệ lại một phen rúng động. Ai nấy đều lấy làm kinh ngạc và thán phục sự nhẫn nhục hoàn toàn của Phật và chư tăng. Cho dù sự việc hết sức oan ức nhưng các ngài cũng không đưa ra một lời phản đối hay biện bạch nào.

Và điều kỳ lạ hơn nữa là, sau vụ này vua Ba-tư-nặc thân hành đến vấn an và nghe lời huấn thị của Phật. Khi trở về, vua đại xá mà không đưa ra truy tố các giáo chủ ngoại đạo đã dính dáng trực tiếp vào vụ việc.



46. MẤY VỊ ĐỆ TỬ NGỖ NGHỊCH

Khi ấy, đức Phật đang ở trong một tinh xá nhỏ nơi thành Câu-đàm-di. Dân chúng nơi đây thường đến nghe Phật thuyết pháp một cách sốt sắng. Nhiều người qui y, nhiều người xin xuất gia, thọ giới làm tỳ-kheo. Vua Ưu-đà-diên ở xứ này là một Phật tử thuần thành, thậm chí ngài có cho thái tử Ra-trá-ba-la xuất gia theo Phật học đạo.

Nhưng chính ở xứ Câu-đàm-di này, Phật chứng kiến một việc đáng buồn.

Trong thành có một tinh xá lớn hơn nơi Phật đang ở, do ông trưởng giả Gô-si-ta xây cất để cúng dường, nên gọi là tinh xá Gô-si-ta. Tăng chúng tu học ở đó có đến mấy trăm vị. Đặc biệt là chia làm hai nhóm, một nhóm chuyên học về kinh, có vị đứng đầu gọi là Kinh sư; một nhóm chuyên học về luật, có vị đứng đầu gọi là Luật sư.

Một hôm, vị Kinh sư đi vào nhà cầu ra, dội nước xong còn thừa một ít trong chậu, nhưng ông quên không đổ nước đi để úp chậu xuống.

Ngay khi đó, đến lượt vị Luật sư đi cầu. Ông thấy vậy thì ra ngoài nói ngay với vị Kinh sư rằng: "Tại sao thầy làm sai luật?" Vị Kinh sư trả lời: "Tôi không biết." Vị Luật sư nói: "Không biết thì không phạm luật."

Sự việc chỉ có thế. Tưởng không có gì đáng nói nữa. Nhưng rồi vị Luật sư sau đó nói với các tỳ-kheo trong nhóm của mình rằng: "Vị Kinh sư phạm luật." Các tỳ-kheo phái luật liền truyền ra khắp nơi rằng: "Vị Kinh sư phạm luật."

Các tỳ-kheo thuộc phái thầy Kinh sư liền đem chuyện ấy mà hỏi. Vị Kinh sư liền nói rằng: "Vị Luật sư đã nói với ta rằng: 'Không biết thì không phạm luật.' Bây giờ lại đi nói với người khác rằng ta phạm luật. Sự việc rõ ràng như thế thì ông ta đúng là mắc tội vọng ngữ."

Các tỳ-kheo trong nhóm thầy Kinh sư liền đi nói với các thầy bên nhóm Luật sư rằng: "Thầy của các ông mắc tội vọng ngữ."

Thế là sự việc bắt đầu trở nên nghiêm trọng. Nhóm này chỉ trích nhóm kia là phạm luật, còn nhóm kia lại bảo nhóm này là nói láo. Vấn đề không còn là của hai vị Kinh sư và Luật sư nữa, mà trở thành sự tranh cãi gay gắt giữa hai nhóm.

Có một số các tỳ-kheo sáng suốt, không rơi vào hai nhóm trên. Họ chỉ lo việc tu tập mà thôi. Khi thấy việc tranh cãi ngày càng to chuyện hơn, họ liền đến báo với đức Phật để nhờ can thiệp.

Phật cho một vị tỳ-kheo thay mặt đến, khuyên cả hai bên hãy dẹp bỏ những tự ái, cố chấp của mình đi, hãy cố sống trong sự cảm thông và hòa hợp cùng nhau. Nhưng cả hai bên đều bỏ ngoài tai những lời khuyên quý báu ấy. Lửa sân hận của họ đang cháy đến cao độ, họ không còn sáng suốt nữa. Bấy giờ, hai bên đều đối với nhau như kẻ thù.

Phật liền thân hành đến khuyên dạy. Ngài không chỉ trích, phê phán bên nào cả, mà chỉ ôn tồn khuyên bảo cả hai bên nên can đảm mà dẹp bỏ sự tự ái, cố chấp của mình, để gìn giữ sự hòa hợp quý báu của Tăng-già.

Thật bất ngờ, sau khi nghe hết lời Phật, một tỳ-kheo bỗng đứng lên nói rằng:

"Bạch Thế Tôn, xin ngài đừng xen vào chuyện này. Xin ngài hãy an tâm mà lo chuyện thiền định của ngài. Tất cả chúng tôi đều đã đủ trí khôn để tự giải quyết những chuyện như thế này."

Đức Phật biết rằng các vị tỳ-kheo ấy đã bị mù quáng vì lửa sân hận và lòng kiêu mạn, không còn có thể tiếp nhận ánh sáng chân lý trong lời nói của ngài được nữa. Vì vậy, ngài lặng lẽ bước ra, rời khỏi tinh xá.

Đức Phật rời tinh xá rồi theo đường lớn mà đi ra chỗ đồng vắng. Ngài cũng không cho thị giả biết mình đi đâu. Đi mãi đến khu rừng kia, ngài gặp các vị đệ tử đang tĩnh tọa nơi đó. Ấy là các ông Bạt-già, A-na-luật và Kim-tỳ-la. Các vị gặp Phật đi một mình đến thì đều ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng.

Phật hỏi chuyện tu tập. Ba vị trình bày với Phật là họ sống rất hòa thuận nơi đây, nhắc nhở nhau cùng tu tập. Phật rất hài lòng. Ngài nghĩ, có nhiều đệ tử của ta vui sống hòa thuận và không cãi lẫy nhau.

Mùa an cư năm ấy, trong ba tháng, ngài quyết định cư trú lại nơi khu rừng này. Không có thị giả, mỗi ngày ngài đi đến xóm làng khất thực, rồi trở lại rừng mà tham thiền.

Khu rừng ấy đặc biệt có rất nhiều thú. Trong thời gian ngài ở đây, có một bầy voi và mấy con vượn thường đến chơi quanh quẩn bên chỗ ngài tọa thiền.

Gần chỗ ngài tọa thiền có một hồ nước trong rất đẹp, bầy voi hay xuống đó uống nước và đùa nghịch cùng nhau.

Mỗi khi voi con trong bầy chạy chơi xa vào rừng, không còn theo bầy, voi mẹ liền cất lên một tiếng hú dài. Voi con nghe tiếng hú ấy liền lập tức quay lại, tụ tập quanh voi mẹ.

Sau nhiều lần nghe tiếng hú ấy, một hôm Phật thử bắt chước theo như vậy. Ngài hú giống voi mẹ lắm, nên bầy voi con chạy đến vây quanh ngài. Ngài lấy tay xoa đầu một con. Bầy voi quanh quẩn với ngài một lát rồi đi.

Sau mùa an cư, Phật đi thẳng về thành Xá-vệ. Tin ngài trở lại thành Xá-vệ làm cho tất cả chư tăng ni nơi đây đều hết sức vui mừng. Ngay lập tức, họ tụ tập đông đảo nơi tinh xá Kỳ Viên để mong lại được nghe ngài thuyết pháp.

Chư tăng ni ở thành Xá-vệ cũng đều đã nghe chuyện bất hòa trong tăng đoàn ở Câu-đàm-di. Tất cả đều lấy làm tiếc cho điều đó. Phật liền lấy lời từ hòa mà an ủi hết thảy đại chúng. Ngài nói:

"Không bao lâu nữa, các vị huynh đệ ấy sẽ tự biết thức tỉnh, ăn năn."

Quả thật, chỉ mấy hôm sau thì có người báo tin tăng đoàn bên Câu-đàm-di đang trên đường sang thành Xá-vệ.

Nguyên nhân là, sau khi Phật bỏ Câu-đàm-di mà đi, vụ tranh cãi trở nên không thể dàn xếp được. Các vị tỳ-kheo sáng suốt không theo phe nào đều chán ngán bỏ đi hết. Còn lại những ông tăng mê muội ấy không đủ oai đức để tín đồ nương tựa, họ đều dần dần xa lánh không lui tới nghe pháp, cũng không cúng dường cho các ông nữa. Bấy giờ họ mới nghĩ lại và thấy hết sự dại dột của mình, muốn tìm Phật để cầu sám hối nhưng bặt tin không biết Phật ở nơi đâu. Nay vừa nghe tin Phật trở về thành Xá-vệ, họ liền kéo nhau lần sang.

Một buổi sáng kia, bọn họ vào đến vườn Cấp-cô-độc, nhưng không dám vào, còn đứng ngoài cổng. Trông bộ dạng họ âu sầu và tiều tụy lắm. Thiên hạ không còn cúng dường cho họ nữa, người ta bất bình vì nghe chuyện họ cãi lời đức Phật. Bây giờ họ kéo nhau đến mà xin sám hối với Phật.

Khi ấy, ông trưởng giả Tu-đạt thay mặt cho thiện nam tín nữ trong thành đến lễ Phật mà hỏi có nên cúng dường cho mấy ông tăng ngỗ nghịch ấy hay chăng. Phật bảo hãy cứ cung kính mà cúng dường các vị ấy như trước.

Tiếp đó, đại đức Xá-lỵ-phất cũng vào thỉnh ý Phật có nên tiếp các vị tăng ấy vào tinh xá hay chăng. Phật bảo cứ tiếp đón họ chu đáo theo nghi thức của tăng đoàn.

Hôm sau, các vị tăng ấy thưa với đại đức Xá-lỵ-phất xin được sám hối lỗi lầm cùng Phật. Xá-lỵ-phất bảo các vị ấy rằng việc tự thấy lỗi lầm mà sám hối, ăn năn chừa bỏ mới là quan trọng. Nhưng các vị mong muốn được sám hối trước mặt Phật mới an lòng.

Phật liền chỉ dạy cho họ cách sám hối như thế nào.

Đầu tiên, vị Kinh sư quỳ xuống trước vị Luật sư và đại chúng, nói với vị Luật sư rằng:

"Bạch đại đức, tôi nhận là mình có phạm luật. Tôi xin sám hối trước đại đức và với đại chúng, để tinh thần tu tập của chúng ta được trở lại hòa hợp như cũ."

Kế đó, vị Luật sư cũng quỳ xuống trước vị Kinh sư và đại chúng, nói với vị Kinh sư rằng:

"Bạch đại đức, tôi nhận là mình đã nói không đúng sự thật, gây chia rẽ bất hòa trong Tăng-già. Tôi xin sám hối trước đại đức và với đại chúng, để tinh thần tu tập của chúng ta được trở lại hòa hợp như cũ."

Các vị tỳ-kheo theo hai phe nhóm kình chống nhau giờ đây cũng tự biết lỗi lầm. Họ cũng sám hối và nguyện sẽ không còn để cho những tự ái xằng bậy và lòng kiêu mạn lấn át nữa.

Mấy ngày sau, các vị lần lượt trở về Câu-đàm-di để tiếp tục tu học.

Qua sự việc này, các vị đệ tử lớn của Phật nhận thấy cần phải làm một điều gì đó để ngăn chặn những sự việc tương tự có thể xảy ra trong tương lai.

Các vị bèn cùng nhau soạn thảo ra một số quy tắc phải tuân theo khi tổ chức cộng đồng tu học, nhằm đảm bảo sự hòa hợp bền vững. Sau nhiều ngày bàn thảo, đúc kết, các vị rút gọn hết thảy vào sáu điều căn bản và trình lên đức Phật. Phật khen ngợi nội dung sáu điều ấy và cho phép ban hành, phổ biến khắp tất cả các tu viện thuộc giáo hội Tăng-già. Sáu điều ấy được gọi tên là Lục hòa kính, cho đến ngày nay vẫn còn là kim chỉ nam cho tất cả mọi cộng đồng tu tập trong Phật giáo. Nhiều bậc tôn túc về sau vẫn thường xem đây như là bản Hiến pháp của Tăng-già.

Sáu điều ấy cụ thể là:

1. Cùng nhau cư trú trong hòa thuận: Mọi người trong cộng đồng phải giữ hòa thuận với nhau ở nơi cư trú. Phải biết nhường nhịn, chia sẻ nhau mọi phương tiện, tiện nghi chung của nơi cư trú đó, như là phòng ốc, ánh sáng, nguồn nước sinh hoạt...

2. Lời nói hòa thuận cùng nhau không tranh cãi: Mọi người trong cộng đồng phải tránh nói ra những lời gây tranh cãi, phải biết nói lời hòa nhã, khiêm tốn, dẹp bỏ tự ái cá nhân và lòng kiêu mạn.

3. Tâm ý hòa thuận cùng nhau vui vẻ: Mọi người trong cộng đồng phải thống nhất ý kiến. Phải biết lắng nghe nhau để đi đến sự thống nhất đó, không ai được độc đoán, bảo thủ.

4. Giữ giới hòa thuận cùng nhau tu tập: Mọi người trong cộng đồng phải cùng nhau nghiêm trì giới luật. Phải biết giúp đỡ, cảm thông nhau để nâng đỡ cho nhau cùng tiến bộ trong việc tu tập.

5. Chia sẻ tri thức để cùng nhau hiểu biết: Mọi người trong cộng đồng phải cùng nhau chia sẻ tri thức, không ai được giữ lấy kiến thức như chỗ sở kiến của riêng mình. Phải biết học hỏi, chỉ dẫn cho nhau để cùng hiểu biết.

6. Chia sẻ đồng đều mọi nguồn lợi tức: Mọi người trong cộng đồng phải chia sẻ đồng đều với nhau về mọi thứ có được, như vật thực do tín thí cúng dường hoặc lợi tức chung của cộng đồng... Không ai được dành lấy phần hơn hoặc có ý nghĩ rằng một nguồn lợi nào đó là của riêng mình.

Với sáu điều hòa kính này, mọi cộng đồng đều sẽ trở thành môi trường lý tưởng cho người tu tập. Và nếu mọi người tôn trọng, giữ đúng những nguyên tắc này thì mọi nguyên nhân gây chia rẽ, bất hòa đều bị dẹp bỏ.

47. PHẬT HÓA ĐỘ NGƯỜI ĐIỀN CHỦ

Một hôm, đức Phật trở lại thành Vương-xá. Có một ông điền chủ bà-la-môn tên Bà-ra-hoa-sa, nhà ở xa kinh thành, thuộc về vùng đồng ruộng. Khi ấy vừa xong mùa gặt, người bà-la-môn cùng những người giúp việc tổ chức ăn mừng năm ấy được mùa. Họ cười đùa ầm ỉ và ca hát, nhảy múa.

Vừa lúc ấy đức Phật mang bình bát đi ngang qua. Những người hiểu biết liền cúi chào ngài và cúng dường rất niềm nở. Nhưng ông Bà-ra-hoa-sa vốn chưa hiểu gì về Phật, lấy làm bất bình và nói lên những lời nặng nề:

"Ông thầy tu kia, ông không được đến xin vật thực nơi đây. Cuộc sống của ông không phải là một gương tốt cho chúng tôi noi theo. Tất cả chúng tôi đều phải làm việc khó nhọc, trông đợi từng mùa thu hoạch. Nào chủ, nào tớ đều phải lo cày, lo gieo, lại lo gặt hái rất nhọc nhằn. Chúng tôi nhờ vậy mới có thức ăn, mới có tích lũy trong kho, rồi mới dám ăn uống, nghĩ ngơi, vui cười. Còn ông, ông chỉ biết lang thang theo đường này ngõ nọ. Sự cực nhọc của ông chỉ là đưa bình bát ra xin mà thôi. Tốt hơn ông nên biết tự làm lấy, tự cày cấy và gieo giống để có mà ăn đi vậy."

Đức Phật không chút giận dỗi, ngài mỉm cười đáp rằng:

"Này ông bạn! Ta cũng cày, cũng gieo giống. Công việc xong, ta cũng vui chơi."

Ông Bà-ra-hoa-sa lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi:

"Ông có cày ư? Ông có gieo giống ư? Vậy ông thử chỉ cho chúng tôi xem đi nào?"

Đức Phật nói:

"Hạt giống mà ta gieo trồng là sự thấy biết chân chánh, trong sạch. Hạt giống gieo rồi, gặp mưa sẽ nảy mầm. Mưa, đó là những điều lành. Ta dùng một cái cày to: mũi cày là trí tuệ, cán cày là đạo hạnh. Ta có con bò mạnh mẽ kéo cày, ấy là lòng thành tín. Khi ta cày ở đâu, cỏ ái dục ở đó đều chết hết. Đúng thời vụ, ta gặt quả là Niết-bàn."

Khi ấy, những người chung quanh đều lắng nghe cuộc đối đáp. Một người nói với ông Bà-ra-hoa-sa rằng:

"Vị tu sĩ này chính là đức Phật, người giáo hóa cho muôn vạn người theo về nẻo lành. Chính ngài đã cải hóa cho Ương-quật-ma-la trước đây cải tà quy chánh đó."

Ông Bà-ra-hoa-sa nghe như vậy rồi liền thức tỉnh, quỳ xuống lễ bái Phật.



48. PHẬT GIẢNG HÒA HAI NƯỚC

Khi ấy Phật đang ở thành Xá-vệ. Sau khi mãn hạ, ngài nghe tin về một vụ tranh chấp dữ dội giữa vua Ma-ha-na-ma và vua Thiện Giác.

Hai vua đều là người thân thích đối với Phật, cũng như dòng họ Thích-ca. Hai nước có biên giới kề cận nhau, có một con sông nhỏ chảy ngang qua biên giới.

Hàng năm, nhân dân hai nước đều nhờ vào con sông này để lấy nước làm ruộng. Năm ấy, trời hạn rất lâu, nên nước sông ngày càng xuống thấp.

Thấy có nguy cơ thiếu nước, nông dân ở ven bờ sông bắt đầu đắp lên những con đập để ngăn nước. Ai cũng muốn giữ được nhiều nước về phần mình, vì thế tranh chấp bắt đầu bùng ra.

Khi nắng hạn ngày càng kéo dài, nước sông càng xuống thấp, thì việc tranh chấp nguồn nước càng trở nên gay cấn hơn. Cuối cùng, cả hai nước đều đã chuẩn bị binh lực, sẵn sàng nổ ra chiến tranh.

Nghe biết sự việc, đức Phật quyết định đến can ngăn hai vua, bởi cả hai vị này đều là người thân của Phật.

Phật chọn một nơi thích hợp rồi cho mời cả hai vua đến. Ngài nói với họ rằng:

"Trong lúc nắng hạn như thế này thì nguồn nước sông quả là vô cùng quý giá. Nhưng hai vị nên biết rằng, có một thứ nước còn quý hơn nhiều: đó là máu trong cơ thể. Các vị không thể vì tranh chấp nước dưới sông mà làm chảy ra mất dòng máu trong cơ thể của nhân dân hai nước. Sự đánh đổi như vậy là thiếu khôn ngoan và không hợp lý. Bởi vì, chúng ta sợ mất mùa, đói kém, tức là sợ dẫn đến cái chết. Nhưng gây ra chiến tranh tức là tìm đến cái chết còn nhanh hơn nữa."

Chờ cho hai vua nhận hiểu đầy đủ những điều vừa nói, rồi Phật mới ôn tồn nói tiếp:

"Cách giải quyết tốt nhất hiện nay là phải biết nhường nhịn, cùng nhau chia sẻ đồng đều nguồn nước hiện còn. Nếu hạn hán kéo dài đến mức khô cạn nước sông, thì điều đó phải được hiểu là một tai họa chung, hai nước phải cùng nhau chịu đựng. Không nên vì muốn giành phần sống về mình mà nhẫn tâm nhìn người khác chết.

"Tuy nhiên, vấn đề không đến mức nghiêm trọng như vậy, vì theo lịch sử ghi nhận lại thì con sông này chưa bao giờ cạn, bởi nó bắt nguồn từ tận trên dãy Hy-mã-lạp sơn. Hai nước hãy cố kiên trì chịu đựng trong tình thân hữu, điều đó sẽ khiến cho vấn đề trở nên nhẹ nhàng hơn nhiều."

Sau khi nghe Phật giảng hòa, không những hai vua mà nhân dân hai nước cũng dẹp bỏ mọi ý nghĩ tranh chấp, cùng nhau chia sẻ nguồn nước một cách hợp lý và công bình.

Quả nhiên, hạn hán đã không làm khô kiệt nước sông. Và nhờ sự giảng hòa của Phật, cuộc chiến tranh tưởng chừng như không thể tránh khỏi giữa hai nước cũng đã được ngăn chặn.

49. ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA MƯU HẠI PHẬT

Đề-bà-đạt-đa tuy xuất gia theo Phật đã lâu nhưng chưa dẹp bỏ được tính tự cao, kiêu mạn. Ông không muốn ở dưới quyền ai, nên muốn được địa vị như Phật. Nhưng ông biết rằng chư tỳ-kheo không kính phục ông, nên ông âm mưu muốn dựa vào quyền thế.

Vì vậy, ông âm thầm lui tới nơi thái tử A-xà-thế, dùng lời xúi giục thái tử giết vua cha mà soán ngôi. Bởi ông nghĩ rằng khi ấy ông có thể dựa vào quyền thế của tân vương mà thay thế địa vị Phật.

Sự ấy chưa diễn ra, nhưng nhờ những lời dua nịnh, bợ đỡ, Đề-bà-đạt-đa được thái tử rất tôn trọng, ban thưởng nhiều món đồ quý giá. Nhân đó mà ông ngày càng tự cao tự đại, cho rằng uy tín của mình đã đến lúc lớn hơn Phật rồi.

Một hôm, trước mặt đại chúng ông công khai thưa với Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Nay ngài đã cao tuổi lắm rồi, sự minh mẫn, linh hoạt chẳng còn được như xưa nữa, nên việc điều hành giáo hội Tăng-già phải làm cho ngài nhọc mệt lắm. Xin ngài hãy nghỉ ngơi mà thiền định, để việc điều hành giáo hội lại cho tôi lo liệu."

Đức Phật cười đáp:

"Ngươi chớ lo việc ấy. Ta tự biết lúc nào ta nên từ biệt trần gian. Hiện giờ đây ta vẫn cần phải giữ gìn việc điều hành giáo hội. Vả lại, trong các đệ tử lớn vẫn còn nhiều bực tài trí hơn ngươi, như Xá-lỵ-phất và Mục-kiền-liên mà ta còn chưa giao quyền điều hành, huống hồ là kẻ như ngươi."

Lời nói thẳng ấy làm cho Đề-bà-đạt-đa tức giận, nhưng ông phải dằn lòng mà cung kính chào Phật rồi đi ra.

Từ đó, Đề-bà-đạt-đa đem lòng căm ghét, lại nảy ra ý muốn giết Phật để lên thay quyền thống lãnh Tăng-già.

Không bao lâu sau đó thì thái tử A-xà-thế nghe lời Đề-bà-đạt-đa mà âm mưu giết cha. Âm mưu bị bại lộ, nhưng vua Tần-bà-sa-la không bắt tội, lại lập tức truyền ngôi cho thái tử.

Thái tử lên ngôi rồi, Đề-bà-đạt-đa lại xúi giục thái tử nên giết cha đi để trừ hậu hoạn. Thái tử A-xà-thế nghe lời Đề-bà-đạt-đa mà bắt vua cha giam vào ngục, bỏ đói cho đến chết.

Vua mới đã lên ngôi rồi, Đề-bà-đạt-đa cậy thế càng mạnh dạn hơn trong việc ám hại Phật. Ông thuê 8 người dũng mãnh đến chỗ Phật ngự để giết Phật. Bọn này bố trí 7 người canh phòng chung quanh, còn một người mang gươm vào giết Phật lúc trời gần sáng.

Tên thích khách bị Phật phát hiện dễ dàng. Phật dùng lời từ hòa cảm hóa anh ta, còn chỉ cho anh ta rút lui theo đường khác, vì nếu anh theo đường cũ sẽ bị đám người kia giết đi để bịt đầu mối. Phật đã đoán biết âm mưu thâm độc của Đề-bà-đạt-đa là như vậy.

Việc ám sát Phật không thành. Đề-bà-đạt-đa lấy làm tức tối, muốn tự mình ra tay. Ông lên núp sẵn trên một triền núi, biết là mỗi buổi chiều Phật thường đi kinh hành trên con đường bên dưới đó.

Khi Phật đi ngang qua, Đề-bà-đạt-đa lăn một tảng đá lớn cho rơi xuống đường mà giết Phật. Nhưng ý đồ đó không thành, vì tảng đá ấy va vào một tảng đá khác nên vỡ ra và đổi hướng. Chỉ có một mảnh đá nhỏ rơi làm trầy ngón chân của Phật, chảy máu.

Chư tăng nghe tin này đều lo lắng và muốn tổ chức việc bảo vệ cho Phật. Nhưng Phật không cho, nói rằng:

"Không ai có thể hại được mạng sống của Như Lai, mọi người hãy an tâm."

Đề-bà-đạt-đa khi ấy nghĩ ra một âm mưu dữ tợn hơn nữa. Ông bàn với vua A-xà-thế, muốn dùng con voi dữ của vua để giết Phật. Vua thuận nghe theo.

Đề-bà-đạt-đa liền cho voi uống rượu say, đợi khi Phật đi khất thực trong thành thì thả voi ra để đạp chết Phật.

Khi voi dữ được thả ra ngay phía trước Phật, dân chúng trong thành đều khiếp sợ, chắc chắn là lần này Phật sẽ bị hại mạng rồi. Nhiều người đã bắt đầu than khóc bi thảm.

Ngay khi ấy, Phật vẫn thản nhiên tiến bước. Còn cách con voi một quãng ngắn, ngài bỗng cất lên một tiếng hú dài, tiếng hú của voi mẹ mà ngài học được ở khu rừng gần xứ Câu-đàm-di ngày trước. Nghe tiếng hú ấy, voi dữ bỗng trở nên hiền hậu, ngoan ngoãn, chạy đến quỳ trước Phật. Phật dùng tay xoa đầu nó. Voi cúi đầu xuống một lát rồi đứng dậy từ từ bỏ đi.

Cả thành Vương-xá đều kinh ngạc khi tận mắt chứng kiến cảnh ấy. Mọi người đều công nhận là chưa có bậc thầy nào có được những uy đức như Phật.

Đề-bà-đạt-đa thất bại lần này nữa thì hoàn toàn thất vọng, không còn biết làm cách nào để ám hại Phật nữa.

50. ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA BỊ KHAI TRỪ

Những hành động ngỗ nghịch của Đề-bà-đạt-đa quá lộ liễu và thấp hèn. Dân chúng trong thành đều lấy làm bất mãn, nhất là khi thấy ông này vẫn còn đắp y vàng như một thầy tỳ-kheo đệ tử Phật.

Biết được những điều dư luận ấy, Phật triệu tập tất cả các vị đệ tử lớn trong tăng đoàn để hỏi ý kiến về thái độ đối với những việc Đề-bà-đạt-đa đã làm.

Sau khi lấy ý kiến chung, Phật quyết định công bố việc khai trừ Đề-bà-đạt-đa ra khỏi giáo hội Tăng-già. Phật truyền cho đại đức Xá-lỵ-phất vào thành Vương-xá để công bố cho nhân dân đều biết việc Đề-bà-đạt-đa đã bị khai trừ khỏi giáo hội, và giáo hội hoàn toàn không chịu trách nhiệm về bất cứ hành động nào của Đề-bà-đạt-đa từ nay về sau.

Khi ấy, Đề-bà-đạt-đa biết việc thay quyền của Phật là chuyện ảo tưởng không sao làm được, ông liền chuyển hướng nghĩ đến việc chia rẽ Tăng-già.

Ông cấu kết với một số các tỳ-kheo nông cạn khác, kêu gọi thành lập một giáo đoàn mới do ông cầm đầu.

Để tạo ra động lực thu hút người theo mình, ông đặt ra năm điều giới luật mới, khắt khe hơn đối với tăng sĩ, và tuyên bố là nhờ vậy mà người tu sẽ mau chứng quả hơn. Những điều luật của ông là:

1. Vị tăng sĩ phải suốt đời cư trú ở trong rừng hoặc nơi vắng vẻ, không được ở trong các tu viện hoặc nhà cửa, phòng ốc.

2. Vị tăng sĩ chỉ sống đời khất thực hoàn toàn, không nhận các buổi lễ cúng dường của tín thí.

3. Vị tăng sĩ suốt đời chỉ được mặc áo vá bằng nhiều mảnh, không được nhận y phục do tín thí cúng dường.

4. Vị tăng sĩ chỉ được ngủ dưới gốc cây, không được ngủ trong xóm làng, thành phố hoặc trong nhà cửa, phòng ốc.

5. Vị tăng sĩ chỉ ăn chay hoàn toàn không dùng đến thịt cá trong bất cứ trường hợp nào.

Đề-bà-đạt-đa ngầm tuyên truyền năm điều luật mới này, để nhằm thu hút những người nhẹ dạ, mới tu, vì họ cho rằng những điều ấy nghiêm nhặt hơn các giáo điều Phật đang áp dụng.

Nhưng đức Phật chỉ rõ rằng bất cứ ai muốn tu hành tinh tấn, phát nguyện thọ trì những điều luật nghiêm khắc hơn thì trong pháp Phật cũng đều sẵn có. Nhưng những điều như vậy không thích hợp để mang ra áp dụng cho toàn thể giáo hội Tăng-già.



Đề-bà-đạt-đa cũng lôi kéo được mấy trăm người nhẹ dạ tin theo ông, phần lớn là những vị vừa mới xuất gia, chưa được học hỏi gì nhiều.

Ông thành lập một giáo đoàn riêng, tự áp dụng những lễ nghi cho mình cũng giống như Phật.

51. CÁC VỊ TỲ-KHEO BỎ ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA

Đề-bà-đạt-đa thành lập được một giáo đoàn riêng thì lấy làm hài lòng lắm. Khi ấy, dân chúng trong thành Vương-xá lấy làm phiền lòng, vì mỗi khi thấy có vị nào khất thực, lại phải hỏi xem vị ấy thuộc giáo đoàn nào. Đa số dân chúng không muốn cúng dường cho những người theo Đề-bà-đạt-đa.

Một hôm, ngài A-nan đi khất thực gặp Đề-bà-đạt-đa trong thành. Ông này nói là kỳ bố-tát tới đây sẽ tách hẳn ra mà tổ chức riêng cho giáo đoàn của mình.

Các vị đệ tử lớn của Phật đều lấy làm phiền lòng về việc này. Hai đại đức Xá-lỵ-phất và Mục-kiền-liên liền xin với Phật đến chỗ Đề-bà-đạt-đa mà dẫn dắt các tỳ-kheo lầm lạc bên ấy về. Phật đồng ý.

Khi hai vị đến chỗ Đề-bà-đạt-đa thì ông này mừng lắm, nói với các đệ tử rằng hai đệ tử lớn nhất của Phật nay đã về theo ông. Ông lại mời hai vị thuyết pháp cho chúng tỳ-kheo nghe để tăng thêm uy tín cho mình.

Xá-lỵ-phất và Mục-kiền-liên nhận lời ở đó trong một tháng, ngày ngày thay nhau thuyết pháp cho chúng tỳ-kheo nghe. Các ngài giảng rõ ý nghĩa của một đời sống trong sạch là như thế nào, và các giáo lý căn bản như Tứ diệu đế với Bát chánh đạo. Ngoài ra, các vị không đá động gì đến việc phân chia giáo đoàn cả. Đề-bà-đạt-đa thấy vậy hài lòng lắm.

Qua một tháng, tất cả các vị tỳ-kheo ở đây đều hiểu hết được những chỗ pháp yếu.

Rồi một buổi sáng, hai vị đại đức tập trung tất cả tỳ-kheo lại nói lời từ biệt để ra đi. Các ngài nói:

"Này các vị! Hôm nay chúng tôi từ biệt các vị mà trở về nơi đức Phật đang thuyết pháp. Các vị nên biết rằng hiện nay chỉ có một bậc giác ngộ hoàn toàn duy nhất là đức Phật mà thôi. Phật là người truyền dạy tất cả những gì mà trong một tháng qua chúng tôi đã cố gắng truyền đạt cho các vị, và nhiều điều khác nữa. Chúng tôi trở về nơi ấy và chờ đợi các vị quay về, để cùng nhau nương tựa bóng từ bi của Phật, vì việc chia rẽ tăng đoàn là một điều xấu xa hoàn toàn đi ngược lại với những gì mà quý vị đã được giảng dạy."

Sáng hôm ấy, Đề-bà-đạt-đa không có mặt vì đang bận việc phải vào thành Vương-xá. Một thầy tỳ-kheo ủng hộ ông liền lên tiếng phản đối và thóa mạ hai vị đại đức bằng những lời phẫn nộ thấp hèn. Ông này không ngờ rằng chính hành động đó của ông đã giúp làm thức tỉnh hết thảy các tỳ-kheo, khi họ được chứng kiến cảnh ấy.

Hai vị đại đức lặng lẽ ôm bát ra về, không một lời cãi vã.

Quả nhiên, chỉ vài hôm sau, mấy trăm tỳ-kheo lần lượt bỏ Đề-bà-đạt-đa mà quay về nơi đức Phật.

Đề-bà-đạt-đa thất bại trong việc chia tách giáo hội, đâm ra buồn bã, chẳng bao lâu thì thành bệnh nặng.

Trong thời gian bệnh nặng không còn đi lại được nữa, ông mới thấy ân hận về những gì mình đã làm, nên nhờ hai vị tỳ-kheo khiêng ông đến chỗ Phật để ông sám hối trước khi chết.

Nhưng ông chết trên đường đi, chưa đến được chỗ Phật.

Ông sinh ra vốn là một người thông minh, có dũng khí và lắm tài nghệ. Hồi còn niên thiếu, ở hoàng thành ông chỉ thua mỗi mình Phật mà thôi. Vậy mà nay ông nhận kết cục bi thảm này, chỉ vì đã để cho sự tham lam và lòng kiêu mạn chế ngự, dẫn dắt.

52. ĐỨC PHẬT VỚI NGƯỜI CHỦ TRẠI

Một hôm, đức Phật ra khỏi thành Vương-xá, cùng đi có ngài A-nan.

Nhân khi ngồi nghỉ bên bờ ruộng, ngài nói với A-nan rằng:

"Này A-nan, những chúng sanh về sau này ắt sẽ có người lấy làm thắc mắc về việc ta giáng thế, sinh ra bởi một người đàn bà. Họ chẳng hiểu được rằng, ta sinh ra tinh khiết hoàn toàn.

"Tâm trí họ u ám, không hiểu rằng đối với đấng đã từng làm hết thảy những việc lành, thân thể tinh sạch nào có liên quan gì đến sự ô uế lúc sanh ra? Đấng sáng lập đạo lớn phải đầu thai sinh ra từ trong lòng một người đàn bà. Bởi vì, nếu có lòng từ bi đối với người trần, phải sanh ra ở cõi trần.

"Nếu hiện thân ra đã là tiên thánh, làm thế nào để chuyển bánh xe Pháp cho được? Nếu đức Phật từ nơi thiên giới hiện xuống, loài người hẳn phải nản lòng mà nghĩ rằng: 'Bởi ngài là thần thánh mới được minh mẫn, giác ngộ như vậy. Còn chúng ta là người cõi phàm, làm sao có thể tu chứng được như ngài?' Nghĩ vậy rồi họ sẽ nản chí, làm sao có thể tiến bước trên con đường đạo lý?"

Khi ấy có một người chủ trại chăn nuôi đi ngang qua đám ruộng. Người ấy có dáng vẻ thanh thản của những kẻ đã làm xong nhiệm vụ.

Đức Phật hỏi: "Này người kia, ông tên là gì?"

Người chủ trại chăn nuôi đáp: "Tôi tên là Đa-ni-da."

Phật lại hỏi: "Giờ ông đi đâu thế?"

Người chủ trại chăn nuôi đáp: "Tôi đã làm xong mọi nhiệm vụ của mình. Giờ tôi về nhà để sum họp với vợ con."

Đức Phật nói: "Xem ông có vẻ hài lòng, hạnh phúc lắm. Nhờ đâu vậy?"

Ông Đa-ni-da đáp: "Tôi có sẵn cơm tự nấu lấy để ăn, có sữa tự vắt lấy để uống. Tôi sống với vợ con bên ven sông, nhà lợp kỹ, lửa đốt sáng, mặc tình trời có mưa thì mưa."

Rồi ông hỏi lại đức Phật: "Tôi trông ngài cũng có vẻ hài lòng, hạnh phúc lắm. Nhờ đâu vậy?"

Phật đáp: "Ta không hờn giận, không luyến ái, lửa dục đã dập tắt từ lâu rồi, mặc tình ngày có qua thì qua."

Người chủ trại chăn nuôi nói tiếp: "Dê tôi nuôi không bị muỗi mòng, bò tôi nuôi tha hồ chơi đùa trên đồng cỏ, chẳng sợ giông bão, mặc tình trời có mưa thì mưa."

Phật nói: "Chiếc bè chắc chắn ta đã kết xong, nương theo nó mà đến chỗ Niết-bàn. Sông mê ta lướt khỏi, đã đến bờ an lành, ta không cần bè nữa, mặc tình ngày có qua thì qua."

Ông Đa-ni-da nói tiếp: "Vợ tôi rất thùy mỵ, hiền lành. Gia đình cùng nhau êm ấm đã lâu, không hề có tiếng gièm pha của láng giềng, mặc tình trời có mưa thì mưa."

Phật nói: "Tâm ý chiều theo ta, ta chế ngự tâm đã lâu rồi. Tâm rất an ổn, không còn gì xấu xa trong ta, mặc tình ngày có qua thì qua."

Ông Đa-ni-da lại nói: "Những người giúp việc tự tôi cấp phát lương tiền, con cái tự tôi lo nuôi ăn uống, không ai phiền trách con tôi, mặc tình trời có mưa thì mưa."

Phật nói: "Không ai phiền ta, ta không phiền ai. Dù có rất ít cũng đủ ngao du khắp thiên hạ. Ta không màng đến tôi tớ làm gì, mặc tình ngày có qua thì qua."

Người chủ trại nói tiếp: "Bò cái tôi có, bò con tôi có, tôi lại có một con chó để chăn mấy con bò cái, mặc tình trời có mưa thì mưa."

Phật nói: "Ta không có bò cái, chẳng có bò con, ta cũng không có chó để giữ gìn, mặc tình ngày có qua thì qua."

Sau khi đối đáp như vậy, ông Đa-ni-da lấy làm ngạc nhiên trước những điều mà đức Phật trình bày như là nguyên nhân hạnh phúc của ngài. Ông liền nói:

"Bạch ngài, người đời ai có con thấy con thì vui, ai có bò thấy bò thì mừng. Vật chất làm vui lòng người, ai không có vật chất thì lấy chi mà vui?"

Đức Phật đáp:

"Không phải vậy. Ngươi hãy nghe cho kỹ điều này. Ai có con thấy con thì lo. Ai có bò thấy bò thì lo. Vật chất làm người lo lắng. Ai không có vật chất, thì khỏi lo lắng chi cả."

Khi ấy, ông Đa-ni-da chợt hiểu, liền đảnh lễ đức Phật và thưa thỉnh rằng:

"Nhà tôi gần đây, xin thỉnh ngài ghé qua để gia đình tôi được cúng dường."

Phật nhận lời.

Mọi người vừa bước chân vào nhà thì trời cũng vừa đổ mưa rất lớn.

53. BỮA CƠM CUỐI CÙNG

Khi Phật gần nhập Niết-bàn, ngài và chư vị đệ tử đang du hành qua xứ Bá-hoa, vừa đến vườn cây của ông thợ rèn Thuần-đà. Chủ nhà ra lạy chào và thỉnh Phật hôm sau đến để cúng dường một bữa cơm.

Phật nhận lời. Qua hôm sau, ông thợ rèn đón rước Phật với chư tỳ-kheo rất trang trọng. Ông dọn cơm có món nấm rất quí. Đức Phật lấy tay chỉ món nấm ấy và nói rằng: "Ngoài ta ra, không ai được ăn thức ăn này."

Ngài ăn xong, lại bảo rằng:

"Món nấm ta ăn còn dư, hãy chôn sâu xuống đất. Chỉ có Phật mới có thể ăn món ấy thôi."

Rồi ngài ra đi, chư tỳ-kheo theo sau. Được một quãng xa, ngài bảo trong người đang mỏi mệt, có bệnh. Ngài A-nan hiểu chuyện, có ý buồn trách người thợ rèn dọn cơm cúng Phật có món nấm độc.

Đức Phật nói:

"A-nan không nên phiền trách người thợ rèn. Người ấy cúng dường ta một bữa ăn, về sau sẽ hưởng phước rất lớn. Ngươi nên biết rằng, trong các bữa ăn cúng dường cho chư Phật, có hai bữa ăn được công đức lớn hơn hết: một là bữa ăn Phật dùng khi sắp thành đạo, hai là bữa ăn Phật dùng khi sắp nhập Niết-bàn."

Bữa ăn mà ông thợ rèn Thuần-đà cúng dường chính là bữa ăn cuối cùng Phật dùng trước khi nhập Niết-bàn.

54. PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Tuy mệt mỏi, Phật vẫn đi cùng các vị tỳ-kheo đến bờ sông Ca-quốc-thá.

Nước dưới sông này trong vắt, chảy chậm. Đức Phật xuống sông tắm. Tắm xong, ngài uống nước và đi đến một cụm rừng xoài. Rồi ngài bảo tỳ-kheo Cung-đa-ca rằng:

"Ngươi hãy xếp áo ta lại làm tư để ta nằm lên mà nghỉ."

Tỳ-kheo Cung-đa-ca vâng theo lời Phật. Người liền trải áo ra và xếp lại làm tư.

Phật nằm lên đó mà nghỉ, ông Cung-đa-ca ngồi bên. Qua vài giờ sau, Đức Phật lại dậy đi nữa. Đến xứ Câu-thi-na, gần bờ sông, trước một cụm rừng xanh tốt và yên vắng, Phật bảo ngài A-nan:

"Ngươi đi tìm chỗ có hai cây sa-la mọc sóng đôi, dọn một chỗ nằm quay đầu về hướng bắc. Ta có bịnh."

A-nan vâng theo, tìm được một chỗ có hai cây sa-la, mỗi cây đều mọc lên hai thân sóng đôi rất đẹp. Đức Phật đến đó nằm.

Bấy giờ không phải là mùa hoa sa-la nở, nhưng hai cây che cho Phật đều có hoa. Hoa rụng lên chỗ ngài nằm, tỏa hương thơm ngát.

Đức Phật bảo A-nan rằng:

"Này A-nan! Dù không phải là mùa hoa, nhưng hai cây này cũng nở hoa và rụng trên mình ta, tỏa hương thơm ngát. Ấy là để ca ngợi, tôn trọng ta đó. Song có một sự tôn trọng cao quý và bền bỉ hơn nhiều. Ấy là việc chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, thiện nam, tín nữ đều thấu hiểu chân lý ta đã truyền dạy và sống theo đạo hạnh. Ấy là cách kính trọng, thờ phụng chư Phật cao quý hơn hết.

"A-nan! Nên sống theo đạo hạnh, dù đối với những việc rất nhỏ nhặt ở đời cũng đừng bao giờ khinh suất mà xa rời đạo hạnh."

Ngài A-nan không cầm lòng được, vội bước ra ngoài để giấu nước mắt. Ông suy nghĩ rằng:

"Ta nhận mình vẫn chưa tỉnh ngộ, chưa hết sự lầm lạc. Ta chưa đạt đến mục đích tối thượng, mà nay Phật đã sớm nhập Niết-bàn."

Phật biết ý nghĩ ấy, gọi A-nan lại, bảo rằng:

"Ngươi chớ than khóc, phiền muộn, cũng đừng chán nản, thối chí. Hãy nhớ lời ta đây: những người yêu quý nhất ở đời, cũng không thể nào tránh khỏi lúc biệt ly. Có sinh là có tử, những gì đã có rồi đều phải mất. Ngươi theo phụng sự ta đã lâu, ta cũng yêu quý ngươi lắm. Tâm ý, lời nói cùng hành động của ngươi luôn chân thành, ngay thẳng. Ngươi hãy gắng mà đi theo đường lành, thì những sự lầm lỗi trước sẽ dần tiêu tan đi vậy."

Trời tối dần. Dân chúng trong thành Câu-thi-na nghe tin đức Phật đang nghỉ ở chỗ hai cây sa-la song đôi, bèn kéo đến lạy chào.

Có một ông lão tên là Tu-bạt-đà-la, đã hơn trăm tuổi, đến xin được gặp Phật. Từ xưa nay ông đi tìm học khắp nơi mà đến giờ vẫn chưa quyết định được nên tu theo đạo nào. Ngài A-nan thấy Phật đang mệt nên không muốn cho ông đến gặp, liền ngăn lại từ xa.

Phật biết điều đó, gọi A-nan đến và bảo cho ông lão ấy vào. Ông vào lễ Phật, hỏi việc tu tập. Phật liền thuyết pháp cho ông nghe. Nghe xong, ông quỳ lạy xin Phật nhận ông làm đệ tử. Phật đồng ý và chỉ rõ cách tu tập, tham thiền cho ông. Ông trở thành vị đệ tử sau cùng của Phật.

Ông lão lễ tạ, đi ra rừng cây gần đó tìm chỗ mà tham thiền. Ông nỗ lực hết sức và chứng quả A-la-hán ngay trong đêm đó, trước khi Phật nhập diệt.

Hôm ấy tối trời. A-nan đến ngồi gần Phật, đức Phật lại bảo A-nan rằng:

"A-nan! Đừng tưởng rằng sau khi ta nhập diệt rồi thì không ai có thể được hóa độ. Nên biết rằng đạo lý ta truyền dạy hãy còn đó. Sau khi ta nhập diệt, các ngươi nên hết lòng noi theo đạo lý ấy mà tu tập."

Rồi ngài nói: "Chư tỳ-kheo! Có sanh tất có diệt. Các ngươi phải hiểu được điều ấy, sau khi ta nhập diệt đừng đem lòng bi lụy, buồn thảm."

Nói xong lời ấy, ngài thản nhiên mà nhập Niết-bàn.

Hôm sau, mặt trời vừa mọc, công chúng trong thành Câu-thi-na cùng nhau xây một cái tháp cao mà thờ kính Phật. Lễ trà-tỳ được tổ chức rất long trọng.

Theo lời Phật truyền lại, quyền điều hành giáo hội được giao về ngài Ca-diếp. Ngài là tổ sư đầu tiên trong giáo hội Tăng-già. Tiếp sau ngài Ca-diếp, ngài A-nan làm tổ sư thứ hai. Lần lượt truyền cho đến ngài Bồ-đề-đạt-ma là tổ sư thứ hai mươi tám ở Ấn Độ.

Ngài Bồ-đề-đạt-ma sang truyền đạo ở Trung Quốc, làm Tổ sư thứ nhất của Thiền Trung Hoa.

Hien huu nhu that da va dang

Vào ngày 27 tháng 6, 1986, Thiền sư phụ tá Vipassana, ông Graham Gambie qua đời sau khi mang bệnh một thời gian ngắn. Graham là một trong ...