Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2018

CHUONG 4 : MOT DEM TRONG KIM TU THAP



Tôi sắp sửa theo đuổi một hoạt động lạ lùng nhất trong đời, nhưng tuy lạ lùng mà vẫn rất thầm lặng. Tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp và ngồi thức suốt đêm trong Vương cung trong khi đêm tối dày đặc bao phủ nền trời châu Phi.

Tôi đã ở một đêm trong ngôi kiến trúc dị kỳ nhất mà con người đã từng dựng lên trên hành tinh này. Thật không phải dễ gì mà lọt được vào trong Kim Tự Tháp lúc ban đêm. Tuy mọi người đều có thể đến viếng ngọn tháp cổ này, nhưng nó không phải là tài sản của công chúng. Nó là tài sản của chính phủ Ai Cập. Không phải ai cũng có thể lọt được vào trong đó và chiếm một gian phòng trống để ngủ một đêm, vì điều đó chẳng khác nào xâm nhập vào nhà của người khác và nằm trong phòng ngủ tốt nhất của họ.

Mỗi khi một du khách muốn vào trong Kim Tự Tháp, người ấy phải bỏ tiền mua một tấm thẻ của Sở Bảo trì cổ tích. Tôi cũng đến đó nhưng là để xin phép ở lại một đêm trong Đại Kim Tự Tháp. Khi người công chức của sở ấy nghe lời thỉnh cầu của tôi, ông ta tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên chẳng khác nào nghe tôi xin giấy phép để du hành lên mặt trăng! Tôi nói vài lời vắn tắt để giải thích lý do sự yêu cầu của tôi. Từ sự ngạc nhiên, viên công chức chuyển sang sự thích thú, và rồi mỉm cười. Tôi hiểu rằng có lẽ ông ta xem tôi như một nhân vật có đủ điều kiện để lọt vào một nơi mà ít người muốn ở lại ban đêm trong đó. Sau cùng, ông ta nói với tôi:

– Tôi chưa hề nhận được một lời thỉnh cầu như thế bao giờ. Tôi không có thẩm quyền để chấp thuận hay từ chối.

Ông ta bèn chuyển đề nghị của tôi lên cho thượng cấp của ông quyết định. Và cảnh tượng buồn cười ở văn phòng viên công chức lúc nãy lại tái diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy bớt lạc quan trong ý định của mình. Viên chủ sự nói với một giọng cương quyết tuy rằng đầy hảo ý, vì chắc hẳn ông ta nghĩ rằng mình đang đứng trước một người có vấn đề về thần kinh.

– Không thể được! Điều ấy thật vô lý. Tôi rất tiếc.

Ông ta vừa nói gằn từng tiếng vừa nhún vai, và đứng dậy để sửa soạn đưa tôi ra cửa. Tôi về nhà ngồi suy nghĩ để tìm cách thực hiện mục đích. Quyết định này của tôi đã trở nên một sự ám ảnh. Hôm sau, tôi bèn xin vào yết kiến Thiếu tướng El Lewa Russell Pacha, chỉ huy trưởng sở Cảnh sát thành phố Cairo. Tôi ra khỏi văn phòng ông ta với một huấn lệnh viết tay, yêu cầu viên cảnh sát trưởng của quận đô thành gồm khu vực Kim Tự Tháp, hãy dành cho tôi mọi sự giúp đỡ cần thiết để thực hiện mục đích.

Chiều đến, tôi bèn đến văn phòng Thiếu tá Mackersey, trưởng ty cảnh sát địa phương, đồn cảnh sát Mena. Họ đưa cho tôi một quyển sổ để tôi ký tên vào đó, sau đó thì cảnh sát có phận sự bảo vệ an ninh cho tôi đến sáng ngày mai.

Một cảnh binh của đồn Mena được biệt phái để hộ tống tôi đến Kim Tự Tháp và chỉ thị cho một viên cảnh sát có võ trang túc trực ở phía ngoài trong đêm đó. Khi chúng tôi bắt tay từ giả, Thiếu tá Mackersey nói đùa:

– Chúng tôi chịu trách nhiệm rất lớn khi để ông ở trong đó một mình suốt đêm. Ông không có ý định đặt chất nổ để phá Kim Tự Tháp đấy chứ?

– Tôi hứa với ông không những bấy nhiêu đó, mà còn dám hứa là sẽ không vác nó trên lưng chạy đi mất!

– Tôi e rằng chúng tôi phải tạm nhốt ông trong đó một đêm. Vì buổi tối chúng tôi luôn phải khóa trái cửa sắt ở chỗ cổng vào. Như vậy là ông bị cầm tù trong mười hai tiếng đồng hồ.

– Tốt lắm! Hôm nay, không có dinh thự nào làm cho tôi thích hơn là cái nhà giam đó.

Tôi bước vào trong Kim Tự Tháp do cái khoảng trống mà ngày xưa vua Al Mamoun đã cho đào ở một góc để tìm lối vào, và bắt đầu thám hiểm bên trong ngọn tháp khổng lồ.

Thật ra, trước kia tôi đã từng bước vào đó rồi, nhưng bây giờ là lần đầu tiên tôi đến đây để thực hiện một công trình khảo sát cũng lạ lùng như công trình đã thúc đẩy tôi trở lại xứ Ai Cập.

Sau khi đã đi qua những dãy hành lang và đường hầm đen tối quanh co như mê cung, tôi lọt vào gian phòng chính của Kim Tự Tháp, gọi là Vương cung. Những ống dẫn không khí thông hơi ra đến bên ngoài là bằng chứng đánh đổ giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là một ngôi lăng tẩm. Tôi rọi đèn pin lên các vách và trên trần, và lại một lần nữa lấy làm thán phục sự ráp nối một cách toàn hảo và tinh vi những khối đá rắn chắc và to lớn đã được mài dũa trơn bén.

Dưới mặt đất cũng như trên các vách đá vẫn còn nhiều vết tích để lại do những cuộc thám hiểm của những kẻ tìm kiếm kho tàng. Ở một góc về phía tây bắc, có một lỗ vuông dài và sâu, và ở kế bên là một tảng đá dài dựng bên vách, trước kia dùng để lót sàn bằng đá nhưng đã bị cạy bật lên bởi những kẻ tìm vàng và còn để lại đó. Nằm song song với tảng đá này là một cái hòm bằng đá không có nắp, mặt đá phẳng lì không có chạm trổ hay khắc chữ chi cả, giống như một cỗ quan tài. Đó là vật duy nhất trong gian phòng trống trơn, đầu xoay về hướng Bắc, đuôi về hướng Nam.

Tảng đá cạy bật lên từ dưới đất có thể dùng làm chỗ ngồi. Tôi bèn ngồi lên đó, hai chân xếp bằng và sửa soạn ở lại đó suốt đêm. Tôi đặt xuống bàn tay mặt tôi cái nón, áo ngoài và đôi giày, phía bên trái tôi để cái đèn pin bật sáng, một bình thủy đựng trà nóng, một bình nước lạnh, quyển sổ tay và cây bút máy.

Tôi đưa mắt nhìn một lần cuối cùng khắp chung quanh gian phòng, nhìn qua cái hòm đá ở bên cạnh tôi, rồi tắt luôn ngọn đèn pin. Khi tôi đột nhiên đắm chìm trong đêm tối, tôi tự hỏi:

– Việc gì có thể xảy đến cho tôi đêm nay? Trong hoàn cảnh lạ lùng này, tôi chỉ có thể làm mỗi một việc là đợi chờ...

Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp, trong khi đó tôi cũng từ từ cảm thấy rằng gian phòng Vương cung này có một bầu không khí rất lạ mà tôi chỉ có thể gọi bằng tính từ "linh thiêng". Tôi đã cố tình giữ một tinh thần thụ cảm, một cảm giác thụ động, một thái độ tiêu cực, để có thể ghi nhận một cách rõ ràng và toàn vẹn mọi sự gì vượt khỏi lãnh vực thực tại phàm tục. Tôi muốn rằng không có một định kiến riêng tư nào ngăn cản tôi tiếp nhận sự gì có thể xảy đến từ lãnh vực tâm linh siêu hình.

Dần dần tôi định tĩnh tinh thần cho đến khi tâm trí tôi hầu như vắng lặng, trống không. Sự vắng lặng bao phủ tâm trí tôi lúc ấy chợt đem đến cho tôi một sự hiểu biết rõ ràng về một cái vắng lặng khác, đó là cái vắng lặng tràn ngập cuộc đời tôi. Cõi thế gian, với sự náo động ồn ào của nó, đối với tôi đã trở nên xa lạ như chưa từng hiện hữu. Không một tiếng động, không một hơi thở đến với tôi từ cảnh đêm tối chung quanh.

Thật ra, thế giới của những Kim Tự Tháp do im lặng ngự trị đã có từ thời tiền sử xa xăm và không một người du khách nào có thể làm gián đoạn, bởi vì mỗi khi đêm tối đến lại mang theo sự im lặng trở về nguyên vẹn, hoàn toàn, gây cho ta một sự sợ hãi nghiêm trọng nhất.

Tôi bắt đầu quan sát bầu không khí uy nghiêm trong gian phòng. Những người nhạy cảm thường nhận thức được cái kinh nghiệm thông thường này trong những nơi đền miếu cổ kính thâm nghiêm. Kinh nghiệm của tôi cũng bắt đầu bằng cái cảm giác tương tự. Thời gian càng trôi qua, ý thức về sự cổ kính thâm nghiêm của ngọn Kim Tự Tháp này càng in dấu vết sâu đậm trong tâm hồn tôi, tôi càng cảm thấy rằng thế kỷ 20 đang lui dần và mất dạng.

Tuân theo cái quyết định mà tôi đã lập sẵn cho mình, tôi không đưa ra một sự phản ứng nào cả để chống lại cái cảm giác đó. Trái lại, tôi để cho nó tăng cường thêm nữa. Tôi bắt đầu có cái cảm giác lạ lùng về một sự hiện diện vô hình đến gián đoạn sự cô đơn của tôi. Dưới bức màn đen tối dày đặc bao phủ chung quanh, tôi cảm thấy rằng có một cái gì cựa quậy và sống động bắt đầu xuất hiện. Đó là một cảm giác mơ hồ nhưng có thật.

Sự phối hợp với ý niệm càng lúc càng tăng thêm về cảm giác trở về dĩ vãng làm cho tôi có ý thức rõ rệt về một ảnh hưởng siêu nhiên thần bí. Tuy thế, không có gì nhất định, rõ rệt trong cái ý niệm mơ hồ đó về một sự hiện diện lạ lùng và sống động trong bóng tối.

Giờ phút trôi qua lặng lẽ, đưa đến một luồng khí lạnh mỗi lúc càng tăng. Ảnh hưởng của ba ngày nhịn đói mà tôi đã áp dụng để tăng gia sự nhạy cảm lúc ấy bắt đầu biểu lộ bằng những cơn run rẩy mỗi lúc một nhiều hơn.

Do những ống thông hơi, không khí lạnh từ bên ngoài lọt vào Vương cung đã thấm vào người tôi xuyên qua lớp áo mỏng, làm cho tôi run lên cầm cập. Tôi bèn đứng dậy mặc thêm áo ngoài mà tôi đã bỏ trên tảng đá cách đó vài giờ vì e sợ tiết trời nóng nực. Nhưng đó là tiết trời ở một vài nơi tại vùng Cận Đông. Khí hậu nóng bức lúc ban ngày, và lạnh lẽo lúc ban đêm. Tôi ngồi lại trên tảng đá và lại đắm mình trong cái im lặng chết người và trong đêm tối rùng rợn. Cái im lặng của nhà mồ, cái hòm bằng đá trống trơn ở bên cạnh tôi không làm cho thần kinh tôi lắng dịu, trong khi sự gián đoạn vừa rồi trong cơn thiền định của tôi dường như cũng làm gián đoạn cả một chuyện khác.

Thật vậy, tôi nhận thấy rằng điều nghi ngại về một sự sống vô hình lởn vởn ở chung quanh tôi đã trở thành một điều chắc chắn. Quả thật, bên cạnh tôi có một cái gì sống động, thổn thức, nhịp nhàng, tuy rằng tôi vẫn chưa nhìn thấy đó là vật gì. Đột nhiên tôi cảm thấy lo sợ khi tôi nghĩ đến sự cô quạnh của tôi và những nguy cơ có thể xảy đến. Tôi vẫn ngồi yên như thế một mình trong gian phòng tối ở một chiều cao bảy chục thước khỏi mặt đất, cao hơn nhiều đối với sự sinh hoạt của một triệu dân cư thành phố Cairo, ở giữa màn đêm đen tối như mực, bị giam lỏng trong ngọn tháp lạ lùng này mà cửa ngoài đã khóa chặt, ở ven một bãi sa mạc rộng đến hàng mấy trăm dặm, trong khi ở bên cạnh gian nhà ngục tạm thời của tôi trong một đêm, có lẽ là ngôi kiến trúc cổ xưa nhất thế giới, đang chen chúc nhau một cách la liệt hỗn độn bao nhiêu những mồ mả âm u, trong cái nghĩa địa của một đế đô cổ xưa nghìn đời ngày nay đã biệt tích.

Dưới mắt tôi, là cặp mắt đã từng quan sát tỉ mỉ cõi giới siêu hình và những điều huyền bí, đã từng sưu tầm cặn kẽ khoa pháp môn phù thủy của phương Đông, thì gian phòng rộng rãi của Vương cung lúc ấy có sự hiện diện của những nhân vật vô hình, và những vị thần linh có nhiệm vụ canh gác ngôi kiến trúc thâm nghiêm này. Dường như một giọng nói từ cõi u minh sắp sửa thốt lên bất cứ lúc nào để phá tan cái im lặng bao la này.

Tôi đã từng quen thuộc với sự cô đơn, và tôi rất thích sống trong cô đơn, nhưng sự cô quạnh của gian phòng này có một cái gì nguy hiểm và rùng rợn đáng sợ. Sự tối tăm làm đắm chìm tất cả mọi sự vật, bắt đầu đè nặng lên đầu tôi như một khối sắt nghìn cân. Trong người tôi phảng phất một sự sợ hãi vô lý. Tôi bèn xua đuổi nó đi tức khắc.

Người ta không cần có một sự can đảm thể chất để ở lại bên trong Kim Tự Tháp hoang vắng, mà là cần có ít nhiều can đảm về mặt tinh thần. Người ta có thể biết chắc rằng không có con rắn nào chui ra từ một cái lỗ hay một khe đá, cũng không có một kẻ sát nhân nào ẩn núp trong đó từ lúc tối trời. Thật ra những sinh vật duy nhất hiện ra trước mắt tôi từ chặp tối là một con chuột sợ hãi chạy loạn cả lên để tìm lối thoát khi nó gặp ánh đèn sáng rực của tôi ở ngoài hành lang, kế đó tôi khám phá ra hai con tắc kè bò trên trần của hậu cung, màu da vàng đục của chúng cho thấy chúng đã sống rất lâu đời, và sau cùng là những con dơi ở dưới hầm đá. Cần nói thêm là có vài con dế dường như đang cất tiếng kêu rất lớn khi tôi bước vào hành lang chính, nhưng khi nghe tiếng động, chúng liền im bặt. Và bây giờ thì cái im lặng đã bao trùm khắp Kim Tự Tháp.

Không có gì của thế giới vật chất làm tôi bất mãn, nhưng dầu sao tôi lại cảm thấy một lần nữa một cảm giác khó chịu mơ hồ dường như có những cặp mắt vô hình đang rình rập tôi ở đâu đây. Chốn này thật là phảng phất một bầu không khí yêu ma hư ảo.

lll

Có vài loại rung động của tinh lực, âm thanh và ánh sáng vượt ra ngoài phạm vi những khả năng cảm xúc thông thường của con người. Những chương trình truyền thanh đi xuyên khắp không gian để đến tai thính giả trên khắp thế giới, nhưng họ sẽ không nghe thấy gì nếu họ không điều chỉnh máy thu thanh bắt đúng tần số của sóng âm. Tôi đã xả thiền và thoát ra khỏi trạng thái hoàn toàn thụ cảm, để dồn tất cả sức mạnh, tập trung ý chí vào sự cố gắng nhằm chọc thủng cái im lặng và bóng tối dày đặc nó bao bọc chung quanh tôi. Nếu nhờ vào sự tập trung tinh thần mãnh liệt vào nội tâm mà khả năng quan sát của tôi được nới rộng đến một tầm mức phi thường, thì lẽ nào tôi không bất chợt nhận ra được sự hiện diện của những sức mạnh vô hình?

Tôi chỉ biết rằng khi tôi tự điều chỉnh bằng phương pháp hồi quang phản chiếu mà tôi được truyền thụ từ lâu trước chuyến du hành lần thứ hai sang Ai Cập, tôi nhận biết được rằng có những mãnh lực bất hảo đã xâm chiếm gian phòng. Có một cái gì tiến lại gần tôi mà tôi cảm thấy là nguy hiểm. Một sự sợ hãi làm rung chuyển tâm hồn tôi, tôi cố xua đuổi đi thì nó lại trở lại từng hồi. Tôi cố gắng áp dụng phương pháp hồi quang phản chiếu một cách tập trung hơn nữa, sự nhạy cảm càng tăng theo cái đà thường lệ của nó và biến thành một linh ảnh.

Những hình bóng lởn vởn chập chờn vô định trong gian phòng dần dần hiện ra với những hình thù rõ rệt hơn. Đột nhiên có những vong linh hung ác xuất hiện và xáp lại gần kề bên gương mặt tôi. Kế đó, một vật đen ngòm tiến lại gần tôi với một cái nhìn dữ tợn và đưa tay lên với một cử chỉ hăm dọa, như muốn gây cho tôi một sự kiêng nể pha lẫn với sự kinh hoàng. Những vong linh mà người ta không thể lường được đã vất vưởng qua bao nhiêu đời, dường như đều kéo nhau lại đây từ cái nghĩa địa gần bên, một nghĩa địa cổ xưa đến nỗi những xác ướp vừa khai quật lên liền tan ra tro bụi trong những chiếc hòm bằng đá.

Chính những vong hồn còn bám víu lấy những xác ướp cổ xưa này đã xuất hiện một cách hung dữ trong gian phòng của tôi. Tất cả những chuyện huyền thoại về ma quái lởn vởn chung quanh Kim Tự Tháp đã trở lại trong ký ức của tôi, với những chi tiết rùng rợn khi được kể lại do những người Ả Rập ở làng gần bên.

Khi tôi nói với một người bạn trẻ Ả Rập rằng tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp, y cố gắng khuyên can tôi:

– Mỗi tấc đất trong đó đều có ma! Vùng này có tất cả một đạo binh yêu ma và thần linh.

Sự cảnh cáo này không phải là vô ích, vì bây giờ tôi có thể nhận thấy đúng như thế. Những hồn ma bóng quế đã xâm nhập vào nơi tạm trú của tôi, và quay cuồng khắp chốn. Cái cảm giác khó chịu và khó tả của tôi từ lúc đầu nay đã được hoàn toàn giải đáp. Dưới một sự căng thẳng như thế, giữa cái thể xác bất động này tôi nhận thấy quả tim tôi đang đập mạnh như búa bổ. Sự sợ hãi điều quái dị luôn rình rập quanh chúng ta lại xâm chiếm lấy tôi một lần nữa.

Sự sợ sệt, kinh hãi, khủng khiếp lần lượt đến với tôi và lột trần bộ mặt dữ tợn của chúng. Hai bàn tay tôi tự nhiên nắm chặt lại như những gọng kềm. Nhưng tôi quyết định vượt qua cơn thử thách, tuy rằng những hình thù ma quái này lúc đầu đã gây cho tôi cảm giác sợ sệt, nhưng sau cùng chúng làm tôi phải huy động tất cả sự can đảm và tinh thần chiến đấu mà tôi có thể.

Đôi mắt tôi vẫn nhắm, trong khi tất cả những vong hồn màu xám đục và mờ sương, lướt nhẹ chung quanh và hiện rõ rệt trong linh ảnh của tôi, luôn luôn với sự thù nghịch mãnh liệt, sự nhất tâm ráo riết ngăn cản việc theo đuổi quyết định của tôi. Cả một đoàn ma quái thù nghịch vây phủ lấy tôi. Tôi có thể giải vây được dễ dàng bằng cách bật đèn pin hoặc đốt đuốc, hoặc đứng lên để thoát mau ra khỏi phòng và chạy một quãng độ vài ba trăm bộ đến cổng ngoài. Tại đó, người gác cổng có võ trang có thể đem đến cho tôi một sự trợ giúp đáng kể trong việc đẩy lùi cơn sợ hãi. Nhưng cơn thử thách bắt tôi phải chịu một hình thức tế nhị của sự cực hình, khuấy phá linh hồn tôi trong khi thể xác tôi vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng đồng thời trong tôi cũng có một sự thúc đẩy mạnh mẽ buộc tôi phải vượt qua giai đoạn thử thách ấy cho đến cùng.

Sau cùng, giai đoạn quyết liệt đã đến. Những loài yêu quái hình thù ghê rợn, gớm ghiếc không thể tả nổi mà chỉ có ở cõi âm ty, những loài ma quỉ hình dung cổ quái, dị hợm, điên rồ, rùng rợn, quái đản... từ đâu kéo đến thật đông chung quanh tôi. Sự ghê tởm mà chúng gây ra làm cho tôi phải trải qua một cơn đau khổ không thể tưởng tượng!

Trong vài phút đồng hồ, tôi đã trải qua những cơn xúc động mà kể từ đó về sau tôi không thể nào quên được. Cảnh tượng độc đáo ấy đã được khắc trong ký ức của tôi bằng những nét sâu đậm không thể xóa mờ. Kể từ nay, với bất cứ giá nào ở cõi trần gian này tôi cũng sẽ không bao giờ muốn tái diễn cái kinh nghiệm khủng khiếp như đêm nay; tôi sẽ không bao giờ ở lại một đêm nữa trong Kim Tự Tháp!

Nhưng rồi cảnh tượng ấy chấm dứt một cách đột ngột lạ thường. Những loài yêu ma, quỉ quái biến mất dạng trong bóng tối mà từ đó chúng đã xuất hiện ra; chúng trở về cõi u minh của những người đã chết, đem theo với chúng tất cả những sự gớm ghiếc, ghê tởm và rùng rợn... Thần kinh của tôi hầu như bị bẻ gãy hết nửa phần, đã cảm giác được một sự thoải mái dễ chịu lớn lao chẳng khác nào như một chiến sĩ ngoài mặt trận khi hỏa lực dữ dội của đối phương đột nhiên chấm dứt.

Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua cho đến khi tôi ý thức được một sự hiện diện mới trong gian phòng. Đó là một sự hiện diện tốt lành, một nhân vật có thiện cảm, đứng ngay chỗ cửa vào và ban cho tôi những cái nhìn đầy hảo ý. Sự có mặt của người này đem đến một sự thay đổi hoàn toàn cho bầu không khí chung quanh, một sự thay đổi rất khả quan và lành mạnh. Một yếu tố mới bắt đầu ảnh hưởng đến con người nhạy cảm của tôi, vừa bị trải qua một cơn đe dọa khủng khiếp. Bây giờ thì tôi đã trấn tĩnh và trở về với sự bình yên.

Nhân vật ấy bước đến gần tảng đá chỗ tôi đang ngồi, khi đó tôi thấy có một nhân vật khác nữa cùng đi theo sau. Cả hai người cùng đứng gần bên tôi và nhìn tôi một cách nghiêm chỉnh; những cái nhìn của họ chứa đầy một ý nghĩa tiên tri. Tôi cảm thấy rằng một giờ phút quan trọng của đời tôi sắp đến gần. Hai vị này hiện ra trong linh ảnh của tôi với một hình dáng khó quên. Những tà áo rộng trắng và giày dép của họ, tất cả đều trở lại trí nhớ của tôi trong khoảnh khắc. Ngoài ra, họ có mang những huy hiệu rõ ràng nói lên chức sắc của họ, khiến người ta có thể nhận ra ngay họ là những vị đạo trưởng cao cấp của nền tôn giáo cổ Ai Cập.

Một ánh hào quang bao phủ quanh mình họ tỏa ra một ánh sáng lạ lùng chiếu sáng một phần của gian phòng. Thật ra, họ có vẻ đặc biệt hơn những người thường; họ có cái cốt cách huy hoàng của những bậc siêu nhân, gương mặt toát ra một sự bình an lạ thường, sự an bình của một đạo viện thâm nghiêm.

Hai vị vẫn đứng yên như hai pho tượng, họ chăm chú nhìn tôi với hai tay chắp ngang trên ngực và giữ một sự im lặng hoàn toàn. Phải chăng tôi đang hoạt động trong một chiều đo thứ tư của không gian, và thức tỉnh để quan sát một dĩ vãng đã trải qua nghìn đời? Ý thức của tôi về thời gian phải chăng đã thụt lùi trở về đến thời đại xa xăm của nước Ai Cập thời cổ đại? Không, không thể được, vì tôi đang nhận thức rõ ràng rằng hai nhân vật ấy có thể nhìn thấy tôi, thậm chí họ cũng đang sắp sửa nói chuyện với tôi. Hai vị nghiêng mình tới trước, một vị hình như đôi môi mấp máy; gương mặt kề sát bên gương mặt tôi, đôi mắt chiếu diệu một tia sáng huyền ảo. Rồi giọng nói của người vang dội bên tai tôi:

– Tại sao ngươi lại đến chốn này và định kêu gọi đến những năng lực huyền bí? Cuộc sống trần gian không đủ làm thỏa mãn ngươi hay sao?

Những lời này đến với tôi không phải bằng sự xúc cảm vật chất của thính giác; vì lẽ không có một rung động âm thanh nào đã xé tan cái im lặng trong gian phòng. Nhưng dường như tôi nghe những lời ấy giống như một người điếc sử dụng một máy trợ thính để có thể nghe những tiếng động dội vào màng nhĩ của anh ta. Duy khác một điều là người điếc nghe được ở bên trong lỗ tai của mình, còn tiếng nói mà tôi nghe được có vẻ như chỉ hiện hữu trong nội tâm, vì tuy rõ ràng là tôi có nghe thấy nhưng lại có cảm giác như là mình đang tiếp nhận một ấn tượng của một tư tưởng. Nhưng thật ra lại không phải như vậy. Đó là một tiếng nói thật sự. Tôi liền lên tiếng đáp:

– Thưa không!

Vị đạo trưởng nói tiếp với tôi:

– Sự náo nhiệt phồn hoa của chốn thị thành đông đúc sẽ trấn an tinh thần cho những kẻ lòng còn run sợ. Đi đi, ngươi hãy trở về với những thân nhân bạn bè, và ngươi sẽ mau chóng quên đi những vọng tưởng vu vơ đã đưa ngươi đến nơi này.

Tôi đáp lại lần nữa.

– Tôi không thể làm như vậy.

Người ấy lại nói:

– Con đường ảo vọng sẽ làm cho ngươi mất cả lý trí. Nhiều người đã từng đi lạc vào đó, và khi trở về hóa thành những kẻ loạn trí, điên khùng. Ngươi hãy trở về đi khi vẫn còn kịp lúc. Hãy trở về với con đường dành cho những bước đi của người trần gian.

Nhưng tôi lắc đầu và nói nhỏ như trong hơi thở:

– Tôi phải theo con đường này, đối với tôi không còn con đường nào khác.

Vị đạo trưởng lại bước đến gần và nghiêng mình về phía chỗ tôi ngồi. Tôi nhìn thấy đó là gương mặt của một vị trưởng lão hiện ra trong đêm tối. Trưởng lão nói thì thầm vào tai tôi:

– Kẻ nào tiếp xúc với chúng ta sẽ tuyệt giao với cuộc đời thế tục. Ngươi dám chắc rằng ngươi có đủ sức đi vững bước một mình chăng?

Tôi đáp:

– Thật ra tôi cũng không biết chắc được.

Vị trưởng lão lại nói thì thầm:

– Hãy theo ta, rồi khi ngươi đã nhìn thấy, ngươi hãy trả lời cho ta biết.

Kế đó tôi nhìn thấy, như trong một linh ảnh xa xăm, những con đường ngoắt ngoéo như mê cung của một thành phố lớn. Cảnh tượng đó hiện ra rất mau chóng, cho đến khi tôi nhận thấy ở phía trước có một ngôi nhà cổ, gần một nơi có rào sắt. Tôi thấy một cầu thang tối om đưa lên một phòng nhỏ hẹp ở phía dưới nóc nhà. Vị đạo trưởng lại đột nhiên xuất hiện tại chỗ ấy, ngồi bên giường nằm của một ông già khác râu tóc rối nùi, với những nét mặt gân guốc phong trần. Ông già này hẳn là đã vượt quá từ lâu cái độ tuổi về chiều của cuộc đời, căn cứ vào nước da màu xám tro và bọc lấy toàn thân xương xẩu của ông ta. Gương mặt hốc hác xương xẩu của ông ta biểu lộ một sức lực đã tàn, làm cho tôi động lòng trắc ẩn, nhưng khi nhìn kỹ ông ta tôi cảm thấy rợn người vì tôi thấy rõ ông ta đang vật lộn với tử thần, một cuộc vật lộn mà kết quả đã hiển nhiên không còn nghi ngờ gì nữa.

Vị đạo trưởng dẫn đường cho tôi nhìn người hấp hối với một cái nhìn thương hại. Người dơ tay lên và nói:

– Đợi vài phút nữa thôi, ông bạn hỡi, và ông bạn sẽ được bình an. Đây tôi có đưa đến cho ông bạn một người đi tìm những mãnh lực nhiệm mầu. Ông bạn hãy nói với anh ta vài lời, để chia sẻ với anh ta ít nhiều kinh nghiệm.

Đột nhiên tôi trở nên không phải chỉ là một người chứng kiến, mà lại là diễn viên trong cái màn bi kịch lạ lùng này. Với một tiếng thở rất nhọc mệt làm se thắt lòng, người hấp hối day đầu lại và nhìn thẳng vào mặt tôi. Dẫu cho tôi có đi đến tận chân trời góc bể tôi cũng không bao giờ quên cái nét kinh hoàng hiện ra trong đôi mắt của ông ta. Ông ta nói thì thầm.

– Anh còn trẻ hơn tôi, nhưng tôi đã đi khắp vũ trụ một lần, hai lần, ba lần. Tôi cũng giống như anh, đã đi tìm cái mà anh đang tìm. Ồ! tôi đã tìm kiếm biết bao lâu rồi!

Ông ta ngừng lại một lúc, đầu lại rơi xuống gối, cố gắng nhớ lại việc cũ. Kế đó, ông ta ngồi nhổm dậy, chống đở người trên hai khủy tay, rồi đưa ra một cánh tay dài và gầy ốm. Bàn tay ông ta với những ngón tay xương xẩu, giống như cánh tay của một bộ xương người. Ông ta nắm lấy bàn tay tôi siết chặt như một cái kềm. Tôi cảm thấy cái nhìn sâu sắc của ông ta như soi vào tận hai mắt tôi với ý định tìm hiểu linh hồn tôi. Rồi ông ta nói lớn:

– Đồ điên, những mãnh lực duy nhất mà tôi tìm thấy chỉ là những mãnh lực của xác thịt và ác quỷ! Không có mãnh lực nào khác. Anh nghe chưa, không có mãnh lực nào khác nữa!

Sự cố gắng ấy dường như vượt quá sức của ông ta. Thế là ông ta rơi đầu xuống gối và tắt thở. Vị hướng dẫn tôi không nói một lời. Người ngồi yên trong một phút suy tư bên cạnh giường. Khi đó, cái linh ảnh đã tan đi mất và tôi lại thấy mình đang ngồi trong Kim Tự Tháp.

Vị đạo trưởng im lặng nhìn tôi, và tôi cũng đáp lại bằng cái nhìn câm lặng. Người đọc được tư tưởng tôi nên từ trong bóng tối vọng đến tai tôi những lời này:

– Được! Ngươi đã chọn con đường này. Quyết định của ngươi từ nay sẽ không thay đổi. Vĩnh biệt.

Và ông ta biến mất. Tôi còn ngồi lại một mình với vị đạo trưởng thứ nhì. Vị này từ lúc đầu chỉ đóng vai trò của một nhân chứng im lặng, lúc này liền bước đến trước chiếc hòm bằng đá. Vị này có gương mặt của một ông lão rất già nhưng tôi không thể đoán được độ tuổi bao nhiêu. Ông lão nói một cách bình tĩnh:

– Này con, những đấng cao cả gìn giữ những quyền năng thần bí đã thu nhận con trong bàn tay của các ngài. Đêm nay con phải được đưa đến phòng thụ huấn. Con hãy nằm ngửa trên tảng đá này. Vào thời cổ xưa thì phải nằm trong cái hòm đá kia, có lót những cành và lá cây chỉ thảo.

Đoạn ông lão chỉ vào cỗ quan tài ở giữa phòng. Tôi không làm gì khác hơn là vâng lời vị đạo trưởng già bí mật. Tôi nằm đặt lưng trên tảng đá. Tôi vẫn chưa biết rõ chuyện gì xảy ra ngay sau khi đó. Tôi cảm thấy như ông lão đã cho tôi uống một liều thuốc mê đặc biệt, có ảnh hưởng rất chậm, vì tất cả bắp thịt của tôi đều cứng đơ. Kế đó thì một sự tê liệt từ từ xâm chiếm cả tứ chi của tôi. Toàn thân tôi trở nên nặng nề và cứng ngắc.

Trước hết, hai bàn chân tôi tê lạnh rồi lan đến hai chân và cảm giác tê lạnh ấy cứ đi dần dần từ dưới lên trên. Bây giờ thì cả hai chân tôi đều không còn cảm giác gì nữa. Dường như tôi sắp sửa bước vào một trạng thái nửa mê nửa tỉnh, một linh tính bí mật báo cho tôi biết rằng sự chết đã đến gần. Tuy thế, tôi vẫn không nao núng, vì từ lâu tôi đã vượt khỏi sự sợ chết cố hữu của người đời và tôi chấp nhận điều không thể tránh được với một tinh thần triết lý.

Cảm giác lạnh đã lên đến ngực, phần dưới thân mình tôi đã hoàn toàn tê liệt. Khi đó tôi có một cảm giác như nhói vào tim, nhưng cảm giác đó qua rất mau và tôi hiểu rằng cơn khủng hoảng cuối cùng sẽ không còn lâu nữa. Nếu tôi có thể nới rộng hai quai hàm đã cứng thì hẳn tôi đã bật cười về cái tư tưởng đầu tiên đến với tôi lúc ấy. Cái tư tưởng đó là:

– Ngày mai người ta sẽ tìm thấy xác chết của tôi trong Kim Tự Tháp, và thế là hết.

Tôi biết chắc rằng tất cả những cảm giác của tôi đều do cái nguyên nhân là sự chuyển tiếp của linh hồn tôi giữa cuộc đời thế tục và cảnh giới bên kia sự chết. Tuy tôi biết rõ rằng tôi đang trải qua những cảm giác của một kẻ đang hấp hối, nhưng tôi không có một phản ứng nào để chống cự lại.

Sau cùng, tất cả ý thức của tôi đã tập trung lên đầu, một sự quay cuồng điên loạn cuối cùng diễn ra trong khối óc của tôi. Tôi cảm thấy dường như tôi bị lôi cuốn theo một trận cuồng phong dữ dội và tôi chui qua một cái lỗ nhỏ hẹp. Rồi trong một lúc, tôi hoảng sợ như sắp bị ném vào khoảng không gian vô tận, tôi lao mình vào khoảng không... và tôi liền được giải thoát!

Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng của sự giải thoát mà tôi vừa trải qua. Tôi đã biến thành một vật thể tâm linh, cấu tạo bằng tư tưởng và tình cảm, không còn bị trói buộc bởi những chướng ngại của cái ngục tù vẫn giam hãm tôi, tức là cái thể xác nặng nề bằng xương thịt này.

Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác, tôi đã trở nên giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi ý thức. Thật ra, ý thức về sự sống của tôi lại còn mạnh mẽ và nồng nhiệt hơn trước. Trên hết mọi sự, việc thoát lên một cảnh giới thanh cao hơn mang lại cho tôi cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cảnh giới thuộc về chiều kích thứ tư đang bắt đầu dung nạp tôi.

Trước tiên, tôi thấy tôi còn nằm ngửa trên lưng, giống như cái thể xác mà tôi vừa rời bỏ, và lơ lửng trên cái sàn gạch đá. Kế đó tôi cảm thấy như có một bàn tay đẩy nhẹ tôi tới trước và đỡ tôi đứng dậy trên hai chân. Sau cùng, tôi cảm thấy như vừa đứng, lại như vừa lơ lửng trên không.

Từ trên không gian, tôi ngắm nhìn cái thể xác bằng xương thịt mà tôi vừa rời bỏ, đang nằm yên, bất động trên tảng đá. Gương mặt không cảm xúc, ngửa lên trần nhà, đôi mắt hé mở, tuy nhiên hai con ngươi không còn đủ sáng để chỉ rằng hai mí mắt không đóng chặt. Hai tay chắp trước ngực, cử chỉ mà tôi không nhớ mình đã làm trước đó. Hay là có ai đó đã chắp hai tay của tôi lại mà tôi không biết? Hai chân tôi duỗi thẳng dọc theo nhau từ đầu đến cuối. Đó là cái thể xác nằm ngửa của tôi, dường như đã chết, mà tôi vừa thoát ra khỏi và bỏ lại đó.

Tôi nhận thấy có một tia sáng yếu ớt và trắng như bạc phát ra từ hình thể mới của tôi, chiếu xuống cái thể xác đang nằm yên bất động trên tảng đá. Đó là một điều lạ, nhưng lạ hơn nữa là tôi thấy cái sợi nhau rún vô hình bí mật đó chiếu sáng cả một góc phòng Vương cung mà tôi đang lơ lửng trên không và soi lên những viên đá trên tường như một ánh trăng sáng mờ dịu.

Tôi chỉ còn là một bóng ma, một vong linh không thể xác đang vẩn vơ trên không gian. Tôi đã hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những chữ ám tự cổ xưa. Với cảm giác bay lơ lửng trên không chẳng khác nào như tôi có mọc ra hai cánh và bay lướt trên cái thể xác vừa rời bỏ, thật giống như con chim bay lượn trên một vật gì ở dưới đất, biểu tượng đó thật là khéo lựa chọn.

Vậy là tôi đang ở trong không gian, tôi đã tách rời linh hồn tôi ra khỏi cái xác phàm, tôi đã tự phân thân tôi ra làm hai phần khác nhau. Tôi đã rời bỏ cõi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay. Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh, thanh nhẹ vô cùng, trong một thể mới, tức là cái thể vía mà tôi khoác lấy kể từ nay.

Nhìn tảng đá lạnh trên đó cái xác bằng xương thịt của tôi đang nằm, tôi có một ý nghĩ giản dị biểu lộ ra một cách thầm lặng bằng những lời này:

– Đó là trạng thái của sự chết. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một linh hồn, và tôi có thể sống ngoài xác thân. Tôi sẽ tin như vậy luôn luôn, vì tôi đã trải qua kinh nghiệm đó.

Tư tưởng đó bám chặt lấy tôi một cách ráo riết như gọng kềm, trong khi tôi vẫn lơ lửng phất phơ trên cái thể xác trống rỗng. Tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng phương pháp hiệu quả nhất là thật sự di chuyển ra khỏi thể xác rồi thấy rằng mình vẫn còn sống!

Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm vừa bỏ lại. Phải chăng đó là cái mà trong bao nhiêu năm qua tôi vẫn gọi là cái tôi? Chỉ là một xác thịt vô tri giác, có thế thôi! Đó là điều mà bây giờ tôi mới khám phá, với bằng chứng rõ ràng. Nhìn vào đôi mắt mờ đục kia không còn thấy gì nữa, không còn đáp ứng với ngoại cảnh, tôi mới nhận thấy rõ tất cả sự mỉa mai của vấn đề. Cái thể xác vật chất đó đã từng giam hãm lấy tôi, một cái tôi thật sự, nhưng bây giờ thì tôi đã được tự do!

Trước kia, tôi vẫn được chở đi lại đó đây trên hành tinh này bằng một cái cơ thể mà từ lâu nay tôi vẫn lầm lẫn với cái tôi thật sự. Dường như cái ý thức về luật hấp dẫn đã biến mất, tôi vẫn phất phơ trên không trung và cảm thấy như vừa treo lơ lửng lại vừa như đứng giữa không trung một cách lạ lùng. Bỗng nhiên xuất hiện bên cạnh tôi một vị đạo trưởng già đạo mạo, cốt cách thanh kỳ, đôi mắt nhìn lên, gương mặt trầm tĩnh, phong thái ung dung, đang lâm râm cầu nguyện:

– Ôi! Đấng chí tôn trên trời cao, xin hãy nhìn về cái thể xác của đứa con ngài và ban cho ân huệ trong cảnh giới tâm linh.

Kế đó, người quay sang nói với tôi:

– Bây giờ con đã học xong một bài học lớn. Con người vốn có linh hồn bất diệt, không thể bị chi phối bởi sự chết. Con hãy ghi nhận cái chân lý đó bằng ngôn ngữ của trần gian.

Ngay lúc đó, trước mặt tôi lần lượt xuất hiện gương mặt khá quen thuộc của một thiếu phụ đã quá vãng mà tôi có dự đám tang từ hơn hai mươi năm trước, rồi đến những nét mặt quen thuộc của một người bạn chí thân mà tôi cũng đã từng đưa đến nơi yên nghĩ cuối cùng cách đây mười hai năm, và sau cùng là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ mà tôi biết là đã chết trong một tai nạn. Cả ba người đều nhìn tôi trong sự trầm lặng, giọng nói thân mật của họ đã thốt ra chung quanh tôi. Tôi nói ít lời vắn tắt với mỗi người ấy, rồi họ lui gót và biến mất.

Vị đạo trưởng già nói:

– Họ cũng sống như con đây, như cái Kim Tự Tháp này đã từng chứng kiến cái chết của nửa phần nhân loại và nó vẫn còn tồn tại. Con hỡi, con nên biết rằng trong ngọn tháp cổ này còn ẩn tàng cái di sản đã mất của những giống người đầu tiên và của sự hòa hợp giữa họ với tạo hóa, do sự trung gian của các vị tiên tri. Những người được chọn lựa ngày xưa đã từng đến đây để được trình bày cho thấy sự hòa hợp đó và khi trở về họ có thể duy trì sự bí mật đó mãi mãi trong dân gian. Con hãy ghi nhớ lời cảnh cáo này: "Khi nào con người từ bỏ sự hòa hợp với thiên nhiên và nuôi sự thù hằn đối với kẻ đồng loại, thì họ sẽ chịu cái số phận của những vị quốc vương châu Atlantide ở vào thời đại xây cất Kim Tự Tháp này. Họ sẽ bị diệt vong bởi chính lòng tà vạy của họ cũng như dân Atlantide ngày xưa vậy." Không phải thiên nhiên đã nhận chìm châu Atlantide mà chính là sự ích kỷ, bạo tàn và mù quáng tâm linh của những dân tộc sống trên vùng lục địa ấy. Thiên nhiên vốn là sự hòa hợp tuyệt đối với tất cả nhân loại, nhưng sự sống còn của con người luôn chịu sự chi phối của những định luật huyền bí hiện hữu trong thiên nhiên. Vậy con hãy ghi nhớ những lời cảnh cáo này.

Khi ấy, tôi bị xâm chiếm bởi một ước muốn mãnh liệt là muốn biết thêm về sự hòa hợp bí mật ấy. Chắc hẳn vị đạo trưởng đã đọc được tư tưởng của tôi, vì người liền nói nhanh:

– Mọi sự phải đến vào đúng ngày giờ của nó. Chưa phải lúc, con ạ. Chưa phải lúc!

Tôi cảm thấy một sự thất vọng chua cay. Vị đạo trưởng nhìn tôi trong vài giây đồng hồ rồi nói tiếp:

– Chưa có một người nào thuộc chủng tộc của con đã được phép biết điều ấy. Nhưng vì con đã giỏi về các khoa này, vì con đã đến với chúng ta với tấm lòng đầy thiện chí và hiểu biết, con có thể nhận được một vài sự thỏa mãn. Bây giờ, con hãy theo ta.

Khi đó xảy ra một chuyện lạ kỳ. Dường như tôi đã chìm vào một cơn mê, trong một lúc tôi đã mất cả ý thức về ngoại cảnh và kế đó tôi cảm thấy rằng tôi đã được đưa đến một chỗ khác. Tôi thấy tôi đang ở tại một dãy hành lang dài, có chiếu một thứ ánh sáng êm dịu, tuy tôi không thấy có cửa sổ hay đèn đuốc chi cả. Tôi nghĩ rằng cái nguồn phát ra ánh sáng này không gì khác hơn là hào quang bao bọc chung quanh người vị đạo trưởng già đồng hành với tôi. Nhưng tôi phải nhìn nhận rằng sự giải thích này vẫn chưa đủ. Các vách tường đều bằng đá ửng màu đất nung, và các phiến đá được ráp nối một cách vô cùng tinh vi. Đất nghiêng theo đường dốc lài lài đi xuống, theo một góc tương đương với độ dốc từ cửa vào Kim Tự Tháp. Gian phòng vuông vức và thấp, nhưng không gây trở ngại. Tôi không thể khám phá ra nguồn gốc của cái ánh sáng bí mật ấy, phía trong gian phòng cũng được chiếu sáng không kém, dường như có một ngọn đèn soi sáng khắp phòng.

Vị đạo trưởng già mời tôi đi theo con đường dốc. Người dặn:

– Đừng quay đầu lại nhìn phía sau.

Chúng tôi vẫn đi như thế trên một quãng đường dốc, kế đó tôi thấy một gian phòng lớn, giống như một nơi thánh điện, ở tận chỗ cuối đường. Tôi biết rõ là tôi đang ở trong hay ở phía dưới hầm Kim Tự Tháp, nhưng trước đó tôi không hề thấy con đường dốc và gian phòng này. Lẽ tất nhiên con đường dốc và gian phòng này đều bí mật vì cho đến khi đó vẫn chưa hề bị khám phá. Tôi không khỏi cảm thấy kinh sợ, do sự phát hiện đột nhiên này, trong khi một sự tò mò mãnh liệt cũng không kém khiến tôi tự hỏi đâu là chỗ cửa vào con đường hầm bí mật này và cửa đó ra sao. Sau cùng tôi phải quay đầu lại và liếc nhìn ra phía sau để hy vọng tìm thấy cái cửa bí mật. Tôi lọt vào con đường dốc này mà không do một ngã nào, nhưng ở phía cuối đường hầm tôi nhận thấy rằng hình như chỗ cửa vào đã bị đóng chặt bởi những tảng đá vuông lớn và trét bằng một chất nhựa giống như xi măng.

Tôi xem xét một vách tường đá trắng, kế đó tôi cảm thấy như bị xô té bởi một sức mạnh vô hình không cưỡng lại được, cho đến khi tất cả cảnh tượng ấy biến mất dạng và tôi tiếp tục bay lơ lửng trên không gian. Tôi còn nghe cái âm hưởng vọng lại từ xa như một tiếng vang: "Chưa phải lúc... chưa phải lúc..." và trong giây phút tôi đã nhìn thấy cái thể xác vô tri bất động của tôi nằm trên tảng đá. Vị đạo trưởng già nói nhỏ với tôi:

– Con hỡi! Con có tìm thấy cái cửa bí mật hay không, điều ấy cũng không quan hệ gì. Con hãy tìm trong nội tâm con đường huyền bí đưa con đến nơi thánh điện ẩn giấu trong chỗ thầm kín nhất của linh hồn, rồi con sẽ tìm thấy cái kho tàng bí mật. Sự bí mật của Kim Tự Tháp chính là sự bí ẩn trong người của con vậy. Những thánh điện thâm nghiêm, những di tích chứng minh của thời cổ, tất cả đều có trong tâm hồn của con. Bài học của Kim Tự Tháp chính là đây: Con người phải quay về nội tâm, thám hiểm tận chỗ trung tâm huyền bí của bản chất mình để tìm thấy chân ngã, cũng như người ta phải thám hiểm tận chỗ thâm sâu ẩn giấu của ngọn tháp này để khám phá ra điều bí mật tối trọng của nó. Thôi, ta vĩnh biệt con từ đây!

Tâm hồn tôi quay cuồng trong một cơn gió lốc lôi cuốn tôi đi, tôi trượt xuống dưới thấp, xuống thấp mãi, một sự mê man nặng nề xâm chiếm lấy tôi, hình như tôi sắp trở về với thể xác của tôi. Tôi thu thập tàn lực để cố gắng cử động những bắp thịt đã cứng đơ, nhưng vô hiệu quả, và sau cùng tôi ngất liệm đi...

Tôi giật mình và mở mắt dậy trong bóng tối dày đặc. Khi toàn thân tôi đã co giãn lại được, tôi dò dẫm trong đêm tối để tìm ngọn đèn pin và bật lên. Tôi vẫn ở trong Vương cung, tinh thần căng thẳng đến cực độ, làm cho tôi phải phóng mình nhảy dựng lên và kêu to, tiếng kêu của tôi vang dội lại rền rỉ trong đêm trường. Nhưng thay vì chân tôi đạp lên mặt đất phía dưới, tôi cảm thấy dường như tôi bị rơi trong khoảng không. Tôi bèn đưa hai tay quơ và bám chặt lấy cạnh của tảng đá và treo mình lủng lẳng trên vực thẳm, nhờ đó tôi mới khỏi té ngã. Khi đó tôi mới biết việc gì đã xảy ra.

Khi tôi vừa nhảy dựng lên tôi đã đi đến đầu cuối của tảng đá mà tôi không hay và hai chân tôi đã ở phía trên một cái lỗ trống đào sẵn ở phía góc tây bắc của gian phòng. Tôi bèn định tĩnh tinh thần và tự gỡ mình thoát ra khỏi tình trạng đó một cách an toàn. Tôi lấy đèn bấm soi đồng hồ đeo tay thì thấy kiếng đã bể ở hai nơi do hậu quả của bước nhảy, khi tôi quơ tay đụng vào tường. Nhưng đồng hồ vẫn còn chạy, phát ra tiếng kêu "tích tắc" nhẹ nhàng và lanh lẹ. Khi tôi xem giờ, tôi muốn phát cười to lên, dẫu rằng giữa bầu không khí cổ kính thâm nghiêm này. Đồng hồ chỉ vừa đúng nửa đêm, cái giờ cổ điển của những biến cố ly kỳ. Kim chỉ giờ và phút cùng giao nhau ở đúng ngay vào số mười hai, không sai một chút dù là hơn hay kém!

lll

Khi viên cảnh binh trực đêm mở cái cổng sắt vào lúc mặt trời mọc, một lãng tử mình dính đầy bụi bặm, dáng điệu mệt nhọc, hai mắt thâm quầng, tập tễnh đi ra từ phía hành lang tối om bên trong Kim Tự Tháp.

Người ấy dụi hai mắt và nhìn ra về phía đồng bằng với những cảnh vật quen thuộc. Trước hết, người ấy hít những hơi dài để thở bầu không khí tự do trong lành. Rồi do bản năng thúc đẩy, người ấy quay mặt về phía mặt trời mọc lúc bình minh và âm thầm thờ kính thần Thái Dương đã ban cho loài người cái ân huệ vô giá: ánh sáng!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hien huu nhu that da va dang

Vào ngày 27 tháng 6, 1986, Thiền sư phụ tá Vipassana, ông Graham Gambie qua đời sau khi mang bệnh một thời gian ngắn. Graham là một trong ...