Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018

Chuong 8: Y thuc va binh tam



Ý thức và sự bình tâm – đây là thiền Vipassana. Khi thực hành chúng cùng lúc thì chúng đưa tới sự giải thoát khỏi đau khổ. Nếu một trong hai bị thiếu hay yếu kém thì không thể nào tiến tới đích được. Cả hai đều thiết yếu, như con chim cần hai cánh để bay, chiếc xe cần hai bánh để chạy. Cả hai  cần phải khỏe mạnh đồng đều. Nếu một cánh yếu và một cánh mạnh thì chim không thể bay đàng hoàng được. Cũng như chiếc xe, nếu một bánh nhỏ và một bánh lớn, chiếc xe chỉ chạy vòng tròn mà thôi. Người hành thiền phải phát triển đồng đều cả ý thức lẫn sự bình tâm thì mới mong tiến bước trên con đường được.

Chúng ta phải ý thức được toàn bộ thân và tâm ở bản tánh tinh tế nhất của chúng. Để đạt tới mục tiêu này, nó sẽ không đủ nếu chúng ta chỉ ý thức ở bề mặt của tâm và thân, như ở những cử động của thân, và ở những ý nghĩ. Chúng ta phát triển ý thức về cảm giác ở toàn thân, đồng thời duy trì được sự bình tâm đối với chúng.

Nếu chúng ta có ý thức nhưng thiếu sự bình tâm, thì khi chúng ta càng ý thức về cảm giác trong thân, chúng ta càng nhậy cảm với chúng, và càng dễ có phản ứng với chúng, và vì vậy càng tăng thêm sự đau khổ. Mặt khác nếu chúng ta có sự bình tâm mà không hề biết gì về cảm giác trong người, thì sự bình tâm chỉ hời hợt bên ngoài, che dấu những phản ứng luôn luôn xảy ra mà không hề biết đến ở tầng lớp thâm sâu của tâm. Vì vậy chúng ta phải phát triển cả ý thức lẫn sự bình tâm ở mức độ thâm sâu nhất của tâm. Chúng ta phải ý thức được tất cả những gì xảy ra trong thân, và đồng thời không có phản ứng lại chúng, hiểu rằng rồi chúng sẽ thay đổi.

Đây là trí tuệ thật sự, sự hiểu biết về chính bản tính của mình, sự hiểu biết do kinh nghiệm trực tiếp về sự thật thâm sâu trong ta. Đó là những gì mà Đức Phật gọi là yathã-bhũta-nãna-dassana, trí tuệ có được do sự quan sát thực tại đúng như thật này. Có được trí tuệ này chúng ta có thể hết đau khổ. Mỗi cảm giác sinh ra lại cho ta hiểu rõ về sự vô thường. Tất cả phản ứng đều chấm dứt, tất cả những sankhãra (nghiệp) về thèm muốn và chán ghét. Do học được cách quan sát thực tại một cách khách quan, ta ngưng tạo khổ cho ta.

            Sự Tồn Trữ Những Nghiệp Quá Khứ.

Duy trí ý thức và sự bình tâm là ngưng tạo những phản ứng (nghiệp) mới, những nguyên nhân mới của sự đau khổ. Nhưng còn một khía cạnh khác của sự đau khổ mà chúng ta cần phải đề cập tới. Bằng cách ngưng hẳn phản ứng từ giờ phút này, chúng ta có thể không tạo thêm nguyên nhân của  đau khổ. Nhưng mỗi người chúng ta vẫn còn mớ tồn trữ tất cả những phản ứng trong quá khứ. Dù rằng chúng ta không tạo thêm những phản ứng mới, nhưng những sankhãras cũ tích tụ vẫn tạo khổ cho chúng ta.

Danh từ sankhãra được dịch là sự tạo thành, cả hành động tạo thành (tạo nghệp) lẫn cái được tạo thành (nghiệp). Mỗi phản ứng là bước chót, là kết quả của một tiến trình của tâm, nhưng nó cũng là bước khởi đầu, là nguyên nhân của một tiến trình mới của tâm. Mỗi sankhãra là kết quả của tiến trình tạo nên nó, và cũng là điểu kiện để tạo ra tiến trình tiếp theo.

Sự điều kiện hóa (tạo nghiệp) hoạt động bằng cách ảnh hưởng trên sự nhận định, tiến trình thứ hai của tâm (đề cập đến trong Chương 2). Thức có bản chất không phân biệt, không phê phán. Mục đích của thức chỉ là ghi nhận sự tiếp xúc đã xảy ra ở thân hay tâm. Nhưng sự nhận định thì có tính cách phân biệt. Nó lấy kinh nghiệm tồn trữ trong quá khứ để đánh giá và phân loại bất cứ một hiện tượng mới nào. Những phản ứng (nghiệp) trong quá khứ trở thành những cái mốc tham khảo mà chúng ta dựa vào đó để tìm hiểu một kinh nghiệm mới. Chúng ta phê phán và xếp loại kinh nghiệm mới đó theo những nghiệp của chúng ta trong quá khứ.

Theo cách này thì những nghiệp cũ về thèm muốn hay chán ghét ảnh hưởng đến sự nhận định  của chúng ta trong hiện tại. Thay vì nhìn thẳng vào thực tế, chúng ta nhìn chúng qua kính mầu đậm. Nhận định của chúng ta về thế giới bên ngoài và thế giới bên trong đã bị méo mó, bị lu mờ vì những điều kiện (nghiệp) của quá khứ, những sở thích, và những thành kiến của chúng ta. Theo cái nhận định bị bóp méo này, một cảm giác vốn dĩ trung tính đột nhiên trở thành dễ chịu hay khó chịu. Chúng ta phản ứng với cảm giác này, tạo nên một điều kiện (nghiệp) mới, và cái điều kiện mới này lại bóp méo thêm những nhận định của ta. Theo cách này thì mỗi nghiệp trở thành nhân cho những nghiệp tương lai, tất cả đều bị điều kiện hóa bởi quá khứ, và đồng thời là điều kiện của tương lai.

Hai công việc của sankhãra được thấy trong Chuỗi Khởi Sinh do Nguyên Nhân (Xem Chương 8). Mắt xích thứ hai trong chuỗi này là sankhãra, điều kiện tiên khởi cho sự khời sinh của thức, tiến trình thứ nhất trong bốn tiến trình của tâm. Tuy nhiên sankhãra cũng là tiến trình cuối cùng của bốn tiến trình theo sau bằng hay biết, nhận định, và cảm giác. Theo hình thức này thì sankhãra xuất hiện sau cảm giác, do phản ứng bằng thèm muốn và chán ghét. Thèm muốn hay chán ghét phát triển thành bám víu, ràng buộc, và trở thành sức đẩy cho một giai đoạn mới của hoạt động của tâm và thân. Như vậy tiến trình tự nuôi dưỡng nó. Mỗi sankhãra cho ra một chuỗi biến cố cứ thế tiếp diễn không ngừng, trong vòng luẩn quẩn. Mỗi khi chúng ta có phản ứng là chúng ta lại củng cố tập quán tạo nghiệp của tâm. Mỗi khi chúng ta phát triển thèm muốn, chán ghét thì chúng ta lại tăng cường khuynh hướng liên tục phát sinh ra thèm muốn, chán ghét của tâm. Một khi khuôn mẫu của tâm đã được tạo dựng, thì chúng ta bị chìm đắm trong đó.

Thí dụ ông A ngăn chặn không cho ông B đạt được điều ông mong ước. Ông B bị cản trở, tin tưởng ông A là một người xấu và ghét ông A. Sự tin tưởng này không dựa vào cá tính của ông A, mà vào sự kiện là ông A đã làm tiêu tan ước muốn của ông. Sự tin tưởng này đã ăn sâu vào tiềm thức của ông B. Mỗi tiếp xúc sau này của ông B với ông A đều bị kinh nghiệm trước ảnh hưởng, và nẩy sinh cảm giác không tốt đẹp, tạo nên chán ghét mới, và tăng cường thêm hình ảnh. Ngay cả khi hai người gặp lại nhau sau 20 năm, ông B nghĩ ngay đến ông A là một người xấu và lại thấy ghét. Cá tính của ông A có thể thay đổi hoàn toàn trong thời gian 20 năm, nhưng ông B phán đoán ông A qua kinh nghiệm quá khứ. Phản ứng không phải đối với ông A, mà là đối với một sự tin tưởng về ông A dựa vào phản ứng mù quáng ban đầu, và vì vậy mà thiên vị.

Trong trường hợp khác, ông C giúp ông D đạt được điều mong ước. Ông D nhận được sự giúp đỡ nên tin tưởng ông C là một người rất tốt, và thích ông ta. Niềm tin này căn cứ trên sự việc ông C giúp ông toại nguyện, chứ không phải dựa trên cá tính của ông C. Sự tin tưởng tích cực này đã được ghi vào tiềm thức và ảnh hưởng đến bất cứ sự giao tiếp sau này với ông C, tạo nên một cảm giác tốt đẹp, và kết quả thích ông C hơn, và sự tin tưởng càng mãnh liệt hơn. Dù bao mhiêu năm qua đi, khi hai người gặp lại nhau, cùng một khuôn mẫu được lập lại với mỗi lần giao tiếp. Ông D phản ứng không phải với ông C, mà chỉ với sự tin tưởng của ông với ông C, căn cứ trên phản ứng mù quáng buổi ban đầu.

Theo cách này, một sankhãra có thể sinh ra một phản ứng mới ngay tức khắc hay trong tương lai xa xôi. Và mỗi phản ứng đến sau lại trở thành nguyên nhân của những phãn ứng tiếp sau đó, và như vậy càng mang thêm đau khổ. Đây là tiến trình lập đi lập lại của phản ứng, của khổ. Chúng ta tưởng rằng chúng ta đang đối diện với thực tại bên ngoài, nhưng thực ra chúng ta đang phản ứng với những cảm giác của chúng ta, phản ứng này đã bị điều kiện hóa bởi nhận định và phản ứng của chúng ta. Ngay cả từ giờ phút này, chúng ta ngưng tạo ra phản ứng (nghiệp mới) mới, chúng ta vẫn còn phải đối diện với những nghiệp cũ đã tích tụ. Vì mớ tồn kho cũ này, một khuynh hướng tạo nghiệp sẽ còn tồn tại, và bất cứ giờ phút nào cũng có thể xuất hiện, tạo cho chúng ta những đau khổ mới. Chừng nào điều kiện (nghiệp) cũ còn tồn tại, thì chúng ta không thể hoàn toàn thoát khỏi đau khổ được.

Làm sao ta có thể trừ tuyệt được những nghiệp cũ? Để có thể trả lời được câu hỏi này, chúng ta cần phải hiểu cặn kẽ hơn về tiến trình của pháp thiền Vipassana.

 

      Diệt Trừ Nghiệp Cũ

             Khi hành thiền Vipassana, nhiệm vụ của chúng ta là chỉ quan sát cảm giác trên toàn thân. Nguyên nhân của bất cứ cảm giác đặc biệt nào đó nằm ngoài sự quan tâm của chúng ta. Chúng ta chỉ cần hiểu rằng mỗi cảm giác là dấu hiệu của một sự thay đổi nội tâm. Sự thay đổi có thể bắt nguồn từ tâm hay thân. Hoạt động của tâm và thân liên quan mật thiết với nhau và thường không thể phân biệt được. Bất cứ sự kiện nào xảy ra ở lãnh vực này rất có thể được phản ánh ở lãnh vực kia.

Như đã được bàn đến ở Chương 2, thân có thể được cấu tạo bởi những vi tử – kalãpas – và những vi tử này sinh diệt rất nhanh trong mỗi khoảnh khắc. Và khi chúng sanh diệt như vậy, chúng biểu hiện đặc tính của vật chất dưới vô lượng kết hợp – trọng lượng, kết dính, nhiệt độ, chuyển động – tạo nên một loạt các cảm giác.

Có thể có bốn nguyên nhân cho sự khởi sinh của kalãpas. Nguyên nhân thứ nhất là đồ ăn chúng ta ăn, nguyên nhân thứ hai là môi trường nơi chúng ta sống. Nhưng bất cứ tâm nghĩ gì đều gây ảnh hưởng trên cơ thể, và có thể là nguyên nhân sinh ra các vi tử (kalãpas). Vì vậy các các vi tử cũng có thể sinh ra do những phản ứng của tâm ở hiện tại hay do những phản ứng ở quá khứ đã ảnh hưởng đến trạng thái của tâm trong hiện tại. Muốn hoạt động, cơ thể cần đồ ăn. Nếu ta ngưng ăn thì cơ thể ta cũng chưa suy sụp ngay. Nó còn có thể kéo dài vài tuần, dùng năng lượng dự trữ trong các mô. Khi tất cả năng lượng dự trữ đã tiêu thụ hết thì cơ thể sẽ suy sụp và chết: dòng chảy của vật chất chấm đứt.

Cũng một đường lối như vậy, tâm đòi hỏi hoạt động để duy trì dòng ý thức. Hoạt động của tâm là sankhãra. Theo Chuỗi Khởi Sinh Do Nguyên Nhân, thức bắt nguồn từ sự phản ứng (Chương 4). Mỗi phản ứng của tâm chịu trách nhiệm cho sức đẩy cho dòng tâm thức. Trong khi cơ thể chỉ cần thức ăn vài lần trong một ngày, tâm đòi hỏi liên tục những kích thích mới mẻ. Không có kích thích, dòng tâm thức không thể tiếp tục dù chỉ trong khoảnh khắc. Thí dụ, trong một lúc nào đó, ta phát sinh sự chán ghét trong tâm, giây phút kế tiếp thức nảy sinh, là kết quả của sự chán ghét này, và cứ tiếp tục như thế, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Chúng ta tiếp tục lập lại phản ứng của chán ghét từng khoảnh khắc và tiếp tục cho dữ kiện mới vào tâm.

Tuy nhiên nhờ hành thiền Vipassana, người hành thiền học cách không phản ứng (không tạo nghiệp). Ở một thời điểm nào đó, hành giả không phản ứng, không cho tâm kích thích mới. Cái gì sẽ xảy ra cho dòng tâm thức? Nó không ngưng ngay. Một trong những phản ứng (nghiệp) tích tụ trong quá khứ sẽ xuất hiện lên bề mặt của tâm để duy trì dòng tâm thức. Để đáp ứng, một nghiệp trong quá khứ sẽ nảy sinh, và từ đó thức sẽ tiếp tục thêm một lúc nữa. Nghiệp sẽ xuất hiện ở mức độ thể xác bằng cách tạo ra một loại kalãpa, và do đấy chúng ta cảm thấy cảm giác trong thân. Có thể là một phản ứng bằng chán ghét trong quá khứ xuất hiện dưới dạng những vi tử, mà chúng ta cảm thấy như một cảm giác nóng bỏng khó chịu trong cơ thể. Nếu ta phản ứng lại cảm giác đó bằng không thích, thì sự chán ghét mới được tạo ra. Chúng ta lại bắt đầu cho dữ kiện mới vào dòng ý thức khiến những nghiệp khác trong quá khứ có cơ hội trồi lên mặt ý thức.

Tuy nhiên nếu một cảm giác khó chịu nảy sinh, và ta không phản ứng, thì sankhãra mới không được tạo thành. Sankhãra trồi lên từ những kho cũ tích tụ trong quá khứ sẽ diệt đi. Trong giây phút kế tiếp, một sankhãra trong quá khứ lại xuất hiện bằng cảm giác. Và nếu ta không phản ứng thì nó sẽ qua đi. Theo cách này, bằng duy trì sự bình tâm, chúng ta để những nghiệp trong quá khứ lần luợt trồi lên ở bề mặt của tâm, hết cái này đến cái khác, thể hiện bằng những cảm giác. Bằng cách duy trì ý thức và sự bình tâm đối với cảm giác, chúng ta tẩy trừ hết những nghiệp trong quá khứ.

Chừng nào nghiệp của chán ghét vẫn còn, thì cái khuynh hướng của vô thức sẽ vẫn còn phản ứng lại với sự chán ghét khi đối diện với bất cứ một kinh nghiệm khó chịu nào trong đời. Chừng nào nghiệp thèm muốn vẫn còn, thì tâm vẫn sẽ phản ứng lại với thèm muốn trong bất cứ trường hợp dễ chịu nào. Pháp thiền Vipassana có hiệu quả bằng cách soi mòn những phản ứng này. Khi hành thiền chúng ta tiếp tục gặp những cảm giác dễ chịu hay khó chịu. Bằng cách quan sát mọi cảm giác với sự bình tâm, chúng ta dần dần làm suy yếu, và tiêu diệt khuyên hướng thèm muốn và chán ghét. Khi một loại nghiệp về phản ứng bị tẩy trừ, thì ta thoát khỏi sự khổ đau đó. Và khi tất cả mọi nghiệp của phản ứng đều bị tẩy trừ, tâm ta hoàn toàn được giải thoát. Người đã thấu hiểu tiến trình này nói:

Các  điều  kiện (nghiệp) đều  vô  thường,

bản  tính  của  chúng  là  sinh  diệt.

Nếu chúng  nảy  sinh  và  bị  diệt  trừ,

sự  diệt  trừ  mang  lại  chân  hạnh   phúc 1

Mọi sankhãra (nghiệp) nảy sinh và diệt đi, chỉ để nảy sinh trong giây phút kế tiếp, liên tiếp không ngừng. Nếu chúng ta phát triển trí tuệ và quan sát một cách khách quan, thì sự tái diễn sẽ ngưng, và sự diệt trừ bắt đầu. Hết lớp này đến lớp khác, những nghiệp cũ sẽ trồi lên và bị diệt trừ với điều kiện ta không phản ứng. Càng nhiều nghiệp được xóa bỏ thì ta càng hưởng được nhiều hạnh phúc chừng đó, cái hạnh phúc của không còn khổ đau. Nếu tất cả các nghiệp trong quá khứ bị diệt trừ thì ta sẽ được hưởng hạnh phúc vô biên của sự giải thoát hoàn toàn.

Phương pháp thiền Vipassana vì vậy là một loại nhịn ăn tinh thần để loại trừ những nghiệp trong quá khứ. Mọi giây phút trong suốt cuộc đời, chúng ta đều phản ứng (tạo nghiệp). Bây giờ, nhờ sự ý thức và bình tâm, chúng ta có được một vài lúc mà chúng ta không phản ứng, không tạo nghiệp. Những lúc đó, dù cho ngăn ngủi đến đâu cũng rất mạnh; chúng làm cho tiến trình đảo ngược, tiến trình thanh lọc tâm.

Để cho tiến trình này được khởi đầu, chúng ta không được làm gì cả; chúng ta phải giữ không gây ra phản ứng mới nào. Bất cứ nguyên nhân của cảm giác mà ta cảm thấy là gì đi nữa, chúng ta cũng chỉ quan sát nó với sự bình tâm. Chính hành động tạo ra ý thức và sự bình tâm sẽ tự động loại trừ được những nghiệp cũ, giống như thắp đèn lên làm tan bóng tối trong một căn phòng.

Đức Phật một lần có kể một câu truyện về một người bố thí rất nhiều. Nhưng khi kết luận Ngài đã nói:

Dù cho ông ta có dâng hiến thật nhiều đi nữa cũng không bằng quy y Phật, Pháp, Tăng. Và dù có quy y Phật, Pháp, Tăng cũng không bằng giữ năm giới. Và dù có giữ năm giới cũng không bằng vun trồng thiện ý với tất cả chúng sanh dù chỉ bằng tời gian  vắt sữa một con bò. Và dù có vun trồng thiện ý với tất cả cũng không bằng phát triển ý thức về vô thường dù chỉ trong một thời gian búng ngón tay.2

Có lẽ thiền giả ý thức về thực tế của những cảm giác trong cơ thể chỉ trong một khoảnh khắc, và không có phản ứng vì hiểu được bản tính phù du của chúng. Ngay cả giây phút ngắn ngủi này vẫn có một hiệu quả mạnh mẽ. Với sự kiên nhẫn, liên tục hành thiền, vài giây phút bình tâm đó sẽ gia tăng, và những giây phút phản ứng sẽ giảm đi. Dần dần, thói quen tạo nghiệp sẽ bị phá vỡ và những nghiệp cũ bị tiêu diệt, cho đến lúc tâm thoát khỏi mọi nghiệp, quá khứ và hiện tại, giải thoát khỏi mọi khổ đau.

 

    VẤN   ĐÁP

Câu Hỏi: Chiều nay, tôi thử một thế ngồi mới, và tôi đã ngồi được lâu hơn mà không cần nhúc nhích, và giữ được lưng thẳng, nhưng tôi không cảm nhận được nhiều cảm giác. Tôi tự hỏi không biết những cảm giác rồi sẽ trở lại hay tôi phải trở lại thế ngồi cũ?

Thiền sư S. N. Goenka: Đừng cố tạo ra cảm giác bằng cách cố tình chọn một thế ngồi không thoải mái. Nếu đấy là một lối hành thiền đúng đắn, thì chúng tôi đã yêu cầu bạn ngồi trên chỗ đầy đinh. Những sự thái quá như vậy không giúp được gì cả. Bạn hãy chọn một thế ngồi thoải mái, thân được thẳng, và để cảm giác xuất hiện tự nhiên. Chúng sẽ đến vì chúng có ở đó. Có thể bạn đang tìm loại cảm giác mà bạn đã cảm thấy trước đây, nhưng có thể có những loại cảm giác khác.

Có nhiều cảm giác tinh tế hơn trước. Trong thế ngồi đầu, rất khó ngồi một lúc mà không cựa quậy.

Như vậy là bạn đã tìm được một thế ngồi thích hợp hơn rồi. Bây giờ hãy để cho cảm giác được tự nhiên. Có lẽ những cảm giác thô thiển đã mất hết rồi, và bây giờ bạn phải đương đầu với những cảm giác tinh tế hơn, nhưng tâm bạn chưa đủ bén nhậy để có thể cảm nhận được chúng. Hãy ý thức về hơi thở một thời gian để cho tâm được bén nhậy hơn. Như vậy sẽ giúp bạn định tâm hơn, và dễ dàng cảm nhận được những cảm giác tinh tế.

Tôi nghĩ tốt hơn là có những cảm giác thô thiển, vì như vậy có nghĩa là những nghiệp cũ đang trồi lên.

Không nhất thiết như vậy. Một vài bất tịnh xuất hiện dưới dạng những cảm giác tinh tế. Tại sao bạn lại ao ước những cảm giác thô thiển? Bất cứ cái gì xuất hiện, thô thiển hay tinh tế, công việc của bạn là chỉ quan sát mà thôi.

Chúng ta có cần phải nhận biết xem loại cảm giác nào thì đi với loại phản ứng nào hay không?

Làm như vậy là phí sức một cách vô ích. Chẳng khác nào một người đang giặt một miếng vải bẩn mà lại để ý tìm hiểu xem nguyên nhân nào đã làm miếng vải đó bẩn. Làm như vậy chẳng giúp được gì cả. Công việc của người đó là giặt miếng vải mà thôi. Muốn làm như vậy, việc quan trọng là có một miếng sà-phòng và dùng nó đúng cách. Nếu người đó giặt đúng cách, tất cả vết bẩn đều được giặt sạch. Cũng như vậy, bạn nhận được sà-phòng của pháp thiền Vipassana; bây giờ hãy dùng nó để tẩy sạch những bất tịnh trong tâm bạn. Nếu bạn tìm kiếm nguyên nhân của những cảm giác đặc biệt, bạn đang chơi trò chơi trí thức, và bạn bỏ quên vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Sự trí thức hóa này không thể giúp bạn ra khỏi khổ đau.

Tôi bối rối không biết ai quan sát và ai hay cái gì đang bị quan sát?

Không có một lời giải đáp trí thức nào có thể làm bạn thỏa mãn. Bạn phải tự tìm hiểu lấy: "Cái 'tôi' là cái gì mà làm tất cả những công việc này? Ai là cái tôi?" Bạn hãy tiếp tục thăm dò, phân tích, và chờ xem có "cái tôi" nào xuất hiện không; nếu có, hãy quan sát nó. Nếu không có gì xuất hiện thì bạn hãy chấp nhận "Ồ, cái 'tôi' này chỉ là một ảo tưởng!"

Không có nghiệp nào là tốt hay sao? Tại sao lại phải cố gắng trừ khử chúng đi?

Nghiệp tốt khuyến khích ta hướng về sự giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng một khi mục đích đã đạt được thì tất cả các nghiệp, dù tích cực hay tiêu cực cũng phải bỏ lại.Cũng giống việc ta dùng chiếc bè để qua sông. Khi qua sông rồi, ta không đội bè trên đầu mà tiếp tục đi. Bè đã được dùng, bây giờ ta không cần nó nữa, phải bỏ nó lại. Cũng vậy, một người đã được hoàn toàn giải thoát không cần đến nghiệp. Một người giải thoát không phải vì nghiệp tốt, mà vì sự thanh tịnh của tâm.

Tại sao khi mới tập thiền Vipassana lại có những cảm giác khó chịu, mà về sau lại có những cảm giác dễ chịu?

Vipassana loại bỏ những bất tịnh thô thiển trước. Khi bạn quét sạch một cái sàn, thì trước hết bạn quét những rác rưởi, đất cát trước, rồi mỗi lần quét sau bạn lại thu nhặt những bụi bặm nhỏ hơn hơn. Vì vậy khi tập thiền Vipassana, những bất tịnh thô thiển của tâm được loại trừ trước, và những bất tịnh vi tế còn lại sẽ xuất hiện dưới dạng những cảm giác dễ chịu.  Nếu trở nên ham thích những cảm giác đó thì nguy hiểm. Bởi vậy, bạn phải cẩn thận không cho những kinh nghiệm về những cảm giác dễ chịu làm mục đích cuối cùng. Bạn phải tiếp tục quan sát mọi cảm giác một cách khách quan để loại bỏ tất cả những phản ứng ạo nghiệp.

Thiền sư nói chúng ta có miếng vải bẩn, và chúng ta có sà-phòng để giặt. Hôm nay tôi cảm thấy như sà-phòng của tôi sắp hết! Sáng nay tôi thiền rất tốt, nhưng chiều nay tôi bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, tức giận, và nghĩ, "Ôi, có ích gì đâu!" Hình như cứ mỗi khi việc hành hiền có sức mạnh, thì một kẻ thù trong tôi – có thể là cái tự ngã – có cùng một lực với sức thiền, và đánh tôi ngã. Và rồi tôi cảm thấy tôi không còn sức để chiến đấu nữa. Có cách nào tránh để tôi khỏi phải tranh đấu vất vả, một phương pháp hay nào đó !

Hãy duy trì sự bình tâm; đó là cách khôn khéo nhất! Những gì bạn trải qua đều rất tự nhiên. Khi bạn thấy mình hành thiền tốt, là tâm được quân bình, và thâm nhập sâu trong vô thức. Nhờ kết quả của sự giải phẫu sâu đó, một nghiệp trong quá khứ bị rúng động và trồi lên bề mặt của tâm. Rồi khi ngồi thiền, bạn phải đối đầu với một trận bão của bất tịnh. Trong trường hợp như vậy, sự bình tâm là điều cốt yếu, vì nếu không, những bất tịnh sẽ áp đảo bạn, và bạn không thể nào hành thiền được. Nếu sự bình tâm bị yếu, bạn hãy ý thức về hơi thở. Khi cơn bão tới, bạn phải thả neo và đợi cho cơn bão qua. Hơi thở là chiếc neo của bạn. Bạn hãy chú tâm vào hơi thở, và cơn bão sẽ qua. Bất tịnh nổi lên trên mặt là một điều tốt, vì bây giờ bạn có cơ hội để quét sạch nó. Nếu bạn giữ được sự bình tâm thì bất tịnh sẽ qua đi một cách dễ dàng.

Nếu tôi không thấy đau thì tôi có thật sự hái được thành quả tốt trong sự thực tập này không?

Nếu bạn có ý thức và sự bình tâm, thì dù đau hay không, bạn vẫn tiến bộ như thường. Không bắt buộc là bạn phải thấy đau mới tiến bộ trên con đường. Nếu bạn không đau, thì cứ chấp nhận là không đau. Bạn chỉ có việc quan sát thôi.

Ngày hôm qua tôi có cảm thấy toàn thân tôi như bị tan rã. Tôi cảm thấy như chỉ là một khối rung động khắp nơi.

Rồi sao?

Và khi đã xảy ra rồi, tôi nhớ lại khi tôi còn nhỏ tôi cũng có một kinh nghiệm tương tự như vậy. Từ bao nhiêu năm nay tôi tìm cách để có lại kinh nghiệm này, và nó đã đến.

Rồi ?

Dĩ nhiên tôi muốn kinh nghiệm này tiếp tục, và kéo dài. Nhưng nó đã thay đổi và mất đi. Và rồi tôi lại hành thiền chỉ để mong kinh nghiệm đó trở lại, nhưng nó đã không trở lại. Thay vào đó, sáng hôm nay tôi chỉ thấy những cảm giác thô thiển.

Rồi?

Rồi tôi nhận thấy tôi đã làm khổ tôi biết bao nhiêu chỉ vì muốn có kinh nghiệm này.

 Và?

Và rồi tôi hiểu được rằng thật sự chúng ta tới đây không phải để có một kinh nghiệm đặc biệt nào. Có phải vậy không?

Phải!

Chúng ta đến đây thật ra để quan sát một kinh nghiệm và không có phản ứng. Có phải vậy không?

Phải!

Vậy pháp thiền này thật ra là để phát triển sự bình tâm. Có phải vậy không?

Phải!

 

          Không gì Ngoài Sự Thấy

 

Có một nhà tu ẩn dật sống ở nơi mà ngày nay là Bombay, là một người rất thánh thiện. Tất cả những người đã gặp ông đều kính trọng ông vì sự thanh tịnh của tâm hồn ông, và nhiều người cho rằng ông nhất định đã được hoàn toàn giải thoát. Nghe người ta xưng tụng về mình như vậy, dĩ nhiên ông tự nghĩ, "Có lẽ ta thật sự được hoàn toàn giải thoát." Nhưng là một người thành thật, ông tự xét mình cẩn thận và thấy rằng trong tâm ông vẫn còn những dấu vết bất tịnh. Lẽ dĩ nhiên, chừng nào bất tịnh còn, thì ông không thể đạt tới giai đoạn hoàn toàn thánh thiện được. Vì vậy ông hỏi những người đến thăm viếng ông, "Hiện nay có người nào trên thế gian này được coi là hoàn toàn giải thoát không?"

"Ồ, thưa ngài có," họ trả lời, "có một vị sư Gotama, được gọi là Phật, sống ở thành phố Savatthi. Được biết người này đã hoàn toàn giải thoát, và ông dạy kỹ thuật nhờ đó mọi người có thể đạt được giải thoát."

"Ta phải đến gặp người này," nhà tu ẩn dật quyết định. "Ta phải học ở người đó con đường dẫn đến giải thoát hoàn toàn." Và ông ta đã đi từ Bombay qua trung Ấn và cuối cùng đến Savatthi, ngày nay là tiểu bang Uttar Pradesh, ở bắc Ấn. Tới Savatthi, ông tìm tới thiền viện của Đức Phật, và hỏi có thể gặp được Phật ở đâu.

"Ngài đã đi ra ngoài," một vị sư trả lời. "Ngài vào thành phố để khất thực. Ông hãy đợi ở đây và nghỉ ngơi; chẳng mấy chốc Ngài sẽ trở về."

"Ồ, không được, tôi không thể chờ được. Tôi không còn thời giờ để đợi nữa! Hãy chỉ cho tôi Ngài đi lối nào và tôi sẽ theo."

"Được, ông đi lối này, nếu ông nhất định đi, ông có thể gặp Ngài trên đường."

Chẳng để phí một giây, nhà ẩn dật lên đường, và đi thẳng vào trung tâm thành phố. Ở đây ông thấy một vị sư đang đi từng nhà để khất thực. Một bầu không khí thanh bình và hòa hợp bao phủ vị này khiến nhà tu ẩn dật tin chắc đây là Đức Phật, và ngay ở giữa phố, ông quỳ xuống, và ôm lấy chân ngài. "Bạch ngài", ông nói, "Con được biết ngài đã hoàn toàn giải thoát, và Ngài dạy con đường dẫn đến giải thoát. Xin Ngài hãy dạy kỹ thuật này cho con."

Đức Phật nói: "Được chứ, ta có dạy kỹ thuật đó, và ta có thể dạy cho ông. Nhưng bây giờ không đúng lúc và đúng chỗ. Hãy về chờ ta ở thiền viện. Ta sẽ về ngay và dạy cho ông kỹ thuật đó."

 "Bạch Ngài, không được. Con không thể chờ đợi được."

 "Sao vậy, nửa giờ mà không chờ được sao?"

 "Bạch Ngài, không được, con không thể chờ được. Ai mà mà biết được? Trong nửa giờ nữa con có thể chết. Trong nửa giờ nữa, Ngài có thể chết. Trong nửa giờ nữa, tất cả niềm tin của con với Ngài có thể không còn nữa, và như vậy con không thể học được kỹ thuật này của Ngài. Bạch Ngài, bây giờ là đúng lúc. Xin Ngài hãy dạy con ngay bây giờ!"

Đức Phật nhìn ông ta, và thấy rằng, "Quả vậy người này không còn sống được bao lâu; chỉ trong vài phút nữa ông ta sẽ chết. Ông ta phải được dạy Pháp ngay bây giờ, tại đây." Và làm sao để dạy Pháp trong khi đứng giữa đường? Đức Phật chỉ nói vài lời, nhưng trong vài lời đó chứa đựng toàn bộ giáo lý của Ngài: "Khi nhìn chỉ có cái thấy; khi nghe chỉ có cái nghe; khi ngửi, nếm, sờ mó, chỉ có cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm; khi hay biết chỉ có cái nhận biết." Khi có sự tiếp xúc qua cửa sáu giác quan, không được có sự đánh giá, cũng như không có sự nhận định bị chi phối bởi nghiệp. Một khi  nhận định  đánh giá là tốt hay xấu, thì ta nhìn đời một cách méo mó vì phản ứng mù quáng cũ của ta. Để giải thoát tâm khỏi các điều kiện (nghiệp), ta phải học cách ngừng đánh giá dựa vào những phản ứng (nghiệp) của quá khứ, và có ý thức thức mà không đánh giá cũng như không phản ứng (tạo nghiệp).

Nhà tu ẩn dật là một người có tâm thanh tịnh đến nỗi chỉ nghe vài lời chỉ dẫn cũng đủ cho ông rồi. Ông ta ngồi xuống bên đường và chú tâm vào thực tại bên trong. Không đánh giá, không phản ứng; ông chỉ quan sát sự thay đổi của tiến trình bên trong ông. Và trong vài phút còn lại của cuộc đời, ông đã đạt được mục đích cuối cùng, ông đã hoàn toàn được giải thoát.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hien huu nhu that da va dang

Vào ngày 27 tháng 6, 1986, Thiền sư phụ tá Vipassana, ông Graham Gambie qua đời sau khi mang bệnh một thời gian ngắn. Graham là một trong ...