
 
Một vài độc giả chắc còn nhớ,  cách đây vài năm ở gần khu Covent Garden ở Luân Đôn có một tiệm sách cũ. Tôi  nói “một vài” vì đa số mọi người chắc hẳn không thích thú bao nhiêu với những bộ  cổ thư quý giá mà ông D., chủ tiệm và cũng là bạn cố tri của tôi, đã phí công  lao suốt cả một đời để góp nhặt và chồng chất lên những kệ sách đầy bụi bám. 
    Trên toàn cõi châu Âu, có lẽ  đó là nơi mà những kẻ tò mò có thể tìm thấy nhiều loại sách cổ xưa hiếm có, nhất  là về các vấn đề huyền học, thuật luyện kim, phù phép, chiêm  tinh, phương thuật v.v... mà người học giả say mê khoa huyền môn này đã thu thập  từ khắp nơi. Người chủ tiệm đã tiêu phí cả một gia tài để mua những bộ sách cổ  đó – những thứ mà thật ra không thể bán lại được. Nhưng ông ta lại cũng không hề  muốn bán những của quý dó! 
    Khi một khách hàng bước vào  tiệm của ông, đó là cả một vấn dề nghiêm trọng. Bằng một cái nhìn soi mói, ông  theo dõi từng cử chỉ, động tác nhỏ nhặt nhất của người ấy. Ông tỏ ra băn khoăn,  lo ngại, đề cao cảnh giác, nhăn mặt nhíu mày và rên siết một cách đau đớn khi  nhìn thấy những bàn tay phàm tục xâm phạm đến những pho sách quý giá của ông và  lôi ra khỏi chỗ của nó. 
    Nếu bạn chú ý đến một quyển  sách quý trong “cổ tàng viện” của ông ta, và cái giá “cắt cổ” ghi ngoài bìa  chưa đủ cao để làm cho bạn hoảng hồn, thì ông ta thường tăng lên gấp đôi nếu bạn  cương quyết muốn mua. Bạn do dự chăng? Khi đó, ông ta sẽ lấy làm khoái trá mà  giật lại từ trên tay bạn quyển sách mà bạn đang mê say. Trái lại, nếu bạn bằng  lòng mua với cái giá “cắt họng” đó, thì ông ta lập tức trở thành hiện thân của  sự thất vọng! Và trong trường hợp đó, ông ta sẽ đến gõ cửa nhà bạn giữa lúc đêm  khuya canh vắng để năn nỉ bạn nhường lại – với bất cứ điều kiện nào do chính bạn  nêu ra – quyển sách mà bạn đã dám bỏ tiền mua! 
    Chính ông ta cũng là một tín  đồ trung thành của Paracelse và Jamblique cũng như những bậc đạo sư khác thời cổ  đại, nhưng ông ta không thích lưu truyền cho kẻ phàm tục những giáo lý huyền  môn cao siêu mà ông ta đã học được. 
    Trước đây, khi còn đang tuổi  thanh xuân, tôi đã có lúc muốn hiểu biết về nguồn gốc thật sự và giáo lý của một  môn phái dị kỳ gọi là phái Hồng Hoa (Rose–croix). Không thỏa mãn với những gì  đã được công bố trong những sách vở nông cạn nói về vấn đề này, tôi liền nghĩ đến  tiệm sách cũ của ông D. với những bộ cổ thư phong phú mà ông đã góp nhặt được,  chắc hẳn có thể cung ứng cho tôi những tài liệu chính xác hơn. Nghĩ vậy, tôi  bèn đến viếng tiệm sách của ông. 
    Khi bước vào cửa tiệm, tôi  chú ý ngay đến dáng dấp đạo mạo và tác phong khả kính của một ông khách cao  niên mà tôi chưa hề gặp ở đó bao giờ. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy vị chủ  tiệm ngạo nghễ kia tỏ ra rất mực cung kính đối với người lạ mặt. ông ta nói một  cách sôi nổi hào hứng trong khi tôi đang lật từng trang của quyển thư mục: 
    – Thưa ông, từ khi tôi bắt đầu  khảo cứu về các vấn đề này, đã bốn mươi lăm năm nay, chỉ có ông là người duy nhất  tôi thấy xứng đáng là khách hàng của tôi. Trong một thời đại nông nổi thiển cận  như ngày nay, làm sao ông lại có thể sở đắc được những kiến thức thâm sâu đến  thế? Còn các môn phái siêu việt ấy, giáo lý cổ truyền của họ tự muôn đời vẫn là  điều bí hiểm đối với các triết gia cận đại. Ông có thể nói cho tôi biết chăng,  hiện nay có những loại sách vở nào còn tồn tại trên mặt đất có thể soi sáng cho  chúng tôi về những vấn đề ấy? 
    Không cần phải nói, khi nghe  đến mấy chữ “môn phái siêu việt” là tôi liền chú ý ngay và lập tức lắng tai  nghe câu trả lời của người khách lạ. Ông lão đáp: 
    – Tôi không nghĩ rằng các bậc  đạo sư của môn phái ấy đã từng lưu truyền giáo lý của các ngài, trừ phi trong  những bản văn với lời lẽ bí hiểm và những ngụ ngôn thần bí. Và tôi cũng không  trách các ngài về sự kín đáo đó. 
    Nói đến đây ông lão ngừng lại,  và có vẻ sắp sửa ra về. Tôi bèn đột ngột hỏi người chủ tiệm: 
    – Này ông D., trong quyển thư  mục này tôi không thấy có tên sách nào nói về môn phái Hồng Hoa! 
    –Môn phái Hồng Hoa! 
    Người khách lạ nói lặp lại  câu ấy và đến lượt ông ta nhìn tôi một cách ngạc nhiên rồi nói: 
    – Ai là người có thể giải  thích những bí pháp của phái Hồng Hoa nếu không phải là một môn sinh của phái ấy?  Và anh tưởng rằng một tín đồ của môn phái bí mật nhất trong các giáo phái huyền  môn lại có thể tiết lộ sự minh triết ẩn giấu của họ cho người thế gian hay  sao?. 
    Tôi thầm nghĩ: À! Đây mới  chính là cái “môn phái siêu việt” mà ông ta nói lúc nãy! Thế ra mình đã gặp được  một môn đồ chính cống của môn phái Hồng Hoa đây rồi! 
    Đó là một nhân vật kỳ bí, có  những thói quen lạ đời và những ý kiến khác thường. Ông ta không bao giờ tiết lộ  về tung tích hay dĩ vãng của mình, và tôi chẳng hề biết gì về cuộc đời của ông.  Ông dường như không có gia đình, và tôi vẫn tưởng như thế cho đến một ngày nọ,  người chấp hành di chúc của ông là một thân nhân xa ở nước ngoài, đến thông báo  cho tôi biết rằng trước khi qua đời ông bạn già của tôi có để lại cho tôi một  di sản khá lớn. Di sản này gồm một số tiền lớn và một vài quyển sách viết tay  quý báu mà tôi dùng làm tài liệu để viết nên những trang sách này. 
    Tôi nghĩ rằng phần di sản thứ  hai này hẳn có liên quan đến cuộc đàm thoại khi tôi đến viếng ông lão chỉ khoảng  vài tuần trước khi ông qua đời. Tuy ông bạn già của tôi rất ít khi theo dõi những  trào lưu văn chương hiện đại, nhưng với một sự cởi mở hồn nhiên ông sẵn sàng  cho phép tôi tham khảo ý kiến ông về những công trình văn nghệ mà một sinh viên  trẻ tuổi và non nớt như tôi muôn thực hiện với lòng tham vọng cuồng nhiệt của  mình. 
    Hôm ấy, tôi hỏi ý kiến ông về  một quyển sách tham luận mà tôi định viết với mục đích trình bày những tác dụng  của cảm hứng đối với những diễn biến của tính chất con người. Ông lão lắng nghe  một cách kiên nhẫn quan niệm tầm thường vô vị của tôi về cuốn sách ấy. Kế đó,  ông quay lại tủ sách của ông, lấy ra một quyển sách cũ và đọc cho tôi nghe vài  đoạn đại khái như sau: 
    “Trong đoạn này,  nhà triết học Platon trình bày bốn loại đam  mê đưa đến sự hứng khởi và nguồn cảm hứng thiêng liêng. Trước hết là sự đam mê  âm nhạc, kế dó là sự đam mê thần bí, thứ đến là sự đam mê tiên tri và sau cùng  là sự đam mê ái tình.” 
    Ông lão nói: 
    – Tác giả phủ nhận trong linh  hồn còn có một cái gì cao siêu hơn lý trí, và quả quyết rằng trong bản thể con  người có những năng lực khác biệt nhau, chẳng hạn như do một trong những năng lực  đó mà chúng ta phát hiện và thấu triệt được những khoa học và định lý một cách  mau chóng lạ thường, chẳng khác nào do trực giác, hoặc do một năng lực khác mà  người ta đạt tới mức tột đỉnh của nghệ thuật, chẳng hạn như những bức tượng  điêu khắc của Phidias. 
    Tác giả còn khẳng định rằng  “lòng hứng khởi” chỉ bộc phát khi phần siêu lý trí trong linh hồn tiếp xúc với  thần minh, và bằng cách đó tạo nên một nguồn cảm hứng thiêng liêng trực tiếp.  Tiếp tục bình luận về triết học Platon, tác giả nhận xét rằng “một trong những  loại đam mê đó (nhất là đam mê ái tình, có thể đưa linh hồn đến niềm phúc lạc đầu  tiên và siêu việt của nó. Nhưng vẫn có một sự hợp nhất chặt chẽ và sâu xa giữa  tất cả các loại đam mê và diễn trình tiến hóa tự nhiên của tâm thức phải đi qua  từng giai đoạn, trước hết là qua sự hứng khởi về âm nhạc, kế đó qua sự hứng khởi  thần bí, thứ đến là sự hứng khởi tiên tri và sau cùng là sự hứng khởi ái tình. 
    Trong khi tôi ngồi nghe với một  tâm trạng sửng sốt, bỡ ngỡ và tập trung mọi sự chú ý để cố gắng nhận hiểu những  lời lẽ tối tăm bí hiểm đó, ông lão gập sách lại và nói một cách hả hê: 
    – Đó là chủ đề quyển sách của  anh, nó là đề mục chính yếu của công trình văn học mà anh muốn thực hiện! 
    Tôi lắc đầu, đáp với một giọng  bất mãn: 
    – Thưa tiên sinh, đó là những  lời lẽ siêu việt và tốt đẹp vô cùng. Nhưng lạy trời, tôi chẳng hiểu chi cả! Xin  ông thứ lỗi, nhưng so với những bí pháp của môn phái Hồng Hoa và những tổ chức  huyền môn khác thì luận điệu bí hiểm của Platon có lẽ chỉ là những trò chơi trẻ  con mà thôi! 
    – Tuy vậy, nếu không thấu triệt  được ý nghĩa của đoạn văn ấy, anh sẽ không bao giờ có thể hiểu những giáo lý  cao siêu nhất của môn phái Hồng Hoa hay của những môn phái khác mà anh vừa châm  biếm với một giọng khinh thường. 
    – Ồ! Nếu vậy thì tôi xin bỏ  cuộc và đành chịu hoàn toàn thất vọng. Nhưng nếu tiên sinh là người đã nắm vững  vấn đề, sao ông không viết sách nhằm trình bày những vấn đề ấy để lại cho hậu  thế? 
    – Ý hay đấy! Nhưng nếu tôi đã  có sẵn một cuốn sách lấy điều dó làm chủ đề, anh có bằng lòng nhận lấy công việc  trình bày nó với công chúng hay không? 
    – Tôi sẵn lòng. 
    Tôi đáp, và ngay sau đó liền  nhận ra là mình quá vội vàng! 
    Ông lão nói tiếp: 
    – Tôi ghi nhận lời hứa của  anh, và sau khi tôi chết, anh sẽ nhận được tập bản thảo. Theo lời anh đã nói với  tôi về những trào lưu của văn chương hiện đại, tôi không chắc là anh sẽ gặt hái  được gì nhiều trong công việc này. Hơn nữa, tôi phải nói trước cho anh biết rằng  công việc này sẽ có phần hơi khó nhọc đấy! 
    – Đó là một quyển tiểu thuyết  chăng? 
    – Ừ, tiểu thuyết, nhưng cũng  không hẳn là tiểu thuyết. Vì đó có thể là chân lý cho những ai hiểu được nó,  nhưng sẽ là một câu chuyện viễn vông đối với những người không hiểu được. 
    Thế là tập bản thảo đã đến  tay tôi, kèm theo một mảnh giấy nhỏ của ông bạn già đã từ trần, nhắc lại lời hứa  dại dột của tôi. Với một sự thích thú pha chút buồn man mác, và với một sự tò  mò nôn nóng, tôi vặn bấc đèn và mở gói sách ra. Bạn đọc hãy tưởng tượng sự kinh  ngạc của tôi khi nhận thấy tập bản thảo được viết tay bằng một thứ chữ bí mật  mà tôi chép lại dưới đây một số chữ điển hình:
    
    Tất cả choán hết 940 trang giấy  vở học trò! 
    Tôi không tin vào mắt mình và  tưởng là mình đang mê ngủ. Tôi sắp sửa xếp tất cả vào hộc tủ để không bao giờ động  đến nữa thì bỗng nhìn thấy một quyển sách nhỏ đóng bìa da màu thiên thanh, mà  trước đó trong lúc vội vàng tôi đã không để ý đến. Tôi mở quyển sách ấy ra, và  lấy làm vui mừng vô hạn khi thấy đó là một quyển tự điển, chính là cái chìa  khóa để tra khảo ý nghĩa những chữ bí mật nói trên. 
    Tôi bèn bắt tay vào việc một  cách hăng say. Nhưng phải nói ngay rằng đó không phải là một việc dễ dàng. Tôi  đã mất đến hai năm làm việc khó nhọc mới thâu hoạch được một vài tiến bộ. Tôi  có thể nói rằng, ngoài các khoản thời gian dành cho những công việc gấp rút  hơn, lời hứa nông nổi của tôi đã bắt tôi phải trả một giá rất đắt là nhiều năm  làm việc vất vả để thực hiện nó. 
    Công việc lại càng khó khăn  hơn nữa vì bản thảo được viết bằng một thể văn vần, dường như tác giả có dụng ý  trình bày tác phẩm của mình bằng một hình thức thi vị. Tuy nhiên, tôi không đủ  khả năng chuyển dịch theo thể văn này, cho dù tôi vẫn muốn cố gắng giữ đúng  theo ý muốn của tác giả. Vì thế, tôi bắt buộc phải viết lại theo thể văn xuôi. 
    Tôi cũng phải thú thật rằng,  mặc dù đã hết sức cố gắng và không quản công lao khó nhọc, tôi vẫn không hoàn  toàn chắc chắn là đã dịch được hết ý nghĩa chính xác của những chữ bí mật trong  tập bản thảo. Thậm chí, thỉnh thoảng vì có một vài khoảng trống trong câu chuyện,  hoặc vì không thể giải đoán được ý nghĩa của một số chữ, tôi buộc phải lấp đầy  khoảng trống bằng những đoạn văn của riêng mình. Những đoạn văn này hẳn là rất  dễ nhận ra, nhưng tôi cũng tự hào rằng nó không đi ngược lại với ý chính trong  toàn thể câu chuyện. 
    Sự thú nhận trên đưa tôi đến  kết luận như sau: 
    “Thưa quý độc giả, nếu trong  quyển sách này có chút gì làm bạn thích thú, thì hẳn là tôi có đóng góp ít nhiều  công lao trong đó; còn nếu có gì làm cho bạn không được hài lòng, thì xin hãy  phiền trách ông bạn già kỳ quái của tôi.” 
    London, tháng 1 năm  l842 
    Sir Bulwer Lytton
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét