Anh Q. N. thân mến,
Bài viết này xem như tôi đặc biệt viết riêng cho anh, nhưng
vì phạm vi đề cập của nó có thể gợi sự quan tâm đến nhiều người nên tôi xin
được đưa lên blog này để chia sẻ với nhiều bạn đọc khác. Hơn nữa, những email
mà anh forward đến tôi cũng đã qua tay nhiều người khác, nên tôi nghĩ đây không
phải là chuyện riêng tư cần phải giữ kín.
Thưa anh,
Tôi đã nhận được 3 email từ anh với lời kèm theo khiêm tốn: “Kính xin anh cho một lời khuyên.”
Khuyên bảo thì tôi thực sự không dám đâu anh ạ, nhưng vì
những điều anh chuyển đến tôi cũng là chuyện liên quan đến Phật pháp, đến sự tu
tập của tất cả chúng ta, nên tôi cũng xin mạo muội nói ra đôi điều, mong rằng
có thể giải tỏa được ít nhiều nghi ngại nơi anh, nếu có. Nhận thư anh vào sáng
nay. Đọc kỹ qua rồi thì chấp bút viết cho anh ngay, cứ xem như là nghĩ sao viết
vậy, biết đến đâu thưa đến đó, e rằng cũng không khỏi còn có những chỗ chưa
được chỉnh chu, mong anh bỏ quá cho vậy.
Trong 3 email của anh thì có 2 vấn đề chính. Tôi xin phép đề
cập đến từng vấn đề một.
Trước hết là chuyện kêu gọi trì chú đại bi để hồi hướng cho
cô Nguyễn Thị M. được khỏi bệnh ung thư, kèm theo thư của một bác tên D. A., từ
chối tham gia việc này và giải thích về ý nghĩa hộ niệm vãng sinh.
Về việc này, tôi cũng không biết anh nghi ngại chỗ nào,
nhưng đã đọc qua sự việc rồi thì tôi có mấy nhận xét như sau, cứ xem như chia
sẻ ý riêng với anh thôi vậy.
Khi tôi vào xem trang web có lời kêu gọi trì chú hộ niệm cho
cô M. thì đã có 165 người đồng ý đăng ký tham gia trì chú đại bi nhằm hồi hướng
cho cô, theo phương thức và thời gian như ban tổ chức có đăng tải cụ thể.
Theo tôi nghĩ thì đây hoàn toàn là một việc nên làm, thể
hiện đức từ bi và tâm vị tha của người Phật tử, cũng như đức tin vào những lời
dạy của Phật trong Kinh điển. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là mỗi người chúng ta có
đủ ngoại duyên và nội lực để tham gia hay không mà thôi. Nếu không tham gia
được thì tùy hỷ theo việc làm của những người đã tham gia cũng tốt, vì tất
nhiên đây không phải là chuyện bắt buộc, cũng không phải một pháp tu mà tất cả
Phật tử đều phải làm theo.
Vì thế, tôi hơi chạnh lòng khi đọc thư của bác D. A. Thật
ra, những điều bác nói là rất chính xác, có thể nói là hoàn toàn đúng theo Kinh
điển chứ không có gì sai lệch. Bác viết rằng:
Người muốn hộ niệm vãng sanh thì
chính người bệnh phải ngộ ra chút đạo. Nghĩa là phải coi cái thân nghiệp này là
giả tạm. Khi đau bệnh thì thành tâm cầu được vãng sanh bằng cách niệm Phật cầu
giải bỏ báo thân. Tín Nguyện hạnh đầy đủ thì được vãng sanh.
Còn những người này họ tha thiết cầu
mong hết bệnh. Nghĩa là tham sống sợ chết. Vì quá tham luyến cái thân thì không
thể thoát được đâu!
Nói chung, chú
không thể tham gia cùng họ đề cầu cho hết bệnh. Vì khuyên họ
cầu hết bệnh thì không đúng với pháp hộ niệm. Người còn tham chấp thân bệnh,
nhất định không thể được cảm ứng, khi chết thì phải theo nghiệp thọ báo.
Người quyết buông xả vạn
duyên, không sợ chết, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh thì như chư Tổ nói,
nếu thân nghiệp mãn thì được vãng sanh Tịnh độ. Nếu thân nghiệp chưa mãn thì tự
nhiên được Phật gia trì mà hết bệnh. Ở đây họ không tin đạo lý này thì chú chịu
thua!
Thôi việc này tùy theo
duyên phần của họ. Ngoài khả năng của chú. Chú không thể tham gia được.
Những điều này quả là đúng thật. Nhưng không phải ai cũng có
thể hiểu được đầy đủ như thế. Người ta hầu như đa phần ai cũng vậy, khi đối mặt
với bệnh tật, đau đớn, nhất là khi có nguy cơ tử vong, thì sự sợ hãi hốt hoảng
hay đau khổ, tham sống sợ chết vốn là chuyện rất bình thường. Lời của bác D. A.
đúng về lý mà chưa thông về sự; đúng về
thể mà chưa hay về dụng.
Vì sao tôi nói như vậy? Đạo Phật đặt nền tảng trên từ bi và
trí tuệ. Có từ bi thì mới khởi được tâm yêu thương, càng thương xót nhiều hơn
đối với những ai đang đau khổ. Chính vì có từ bi nên chư Phật, Bồ Tát mới thị
hiện ở đời để cứu vớt chúng sinh. Nếu chúng sinh không mê muội, khổ đau, không
tham sống sợ chết thì đâu cần chư Phật xuất thế? Bởi vậy, người bệnh muốn cầu
nguyện cho được khỏi bệnh thì đúng là còn mê muội, nhưng đó là sự mê muội đáng
thương hơn đáng trách, và ta càng cần phải đưa tay cứu vớt, hay ít nhất cũng là
xoa dịu hoặc an ủi họ, từ đó mới có thể có điều kiện, phương tiện gần gũi rồi
dần dần soi rọi ánh sáng Chánh pháp vào tâm thức họ, giúp họ không còn mê muội
như trước. Cho dù không được như thế thì cũng cố gắng giúp họ gieo chút duyên
lành được đến gần Phật pháp hơn. Được đến mức nào cũng đều là đáng quý cả. Nếu
ta thấy họ mê muội mà từ chối quay lưng thì ai sẽ dắt dẫn họ về gần Chánh pháp?
Do nơi ý nghĩa này mà Phật đã thuyết phẩm kinh Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, chắc hẳn anh và nhiều Phật tử khác cũng đều rất thường tụng đọc.
Phẩm kinh Phổ môn nói rằng, người khổ đau, kẻ bệnh hoạn, người
mong cầu con trai, con gái, cho đến những kẻ đang gặp hiểm nạn, lao tù... nếu
xưng tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngài đều sẽ theo âm thanh ấy mà cứu
giúp cho được toại ý vừa lòng, tai qua nạn khỏi.
Anh thấy không, những người cầu nguyện với Bồ Tát Quán Thế
Âm như thế, đều là những người còn si mê cả, vì chưa thấu được lý nhân quả,
chưa thấy được lẽ vô thường, còn bám chấp vào những điều hư huyễn của đời sống
thế tục. Thế nhưng, Bồ Tát thị hiện đều là vì họ, không phải vì những người đã được
giác ngộ. Vì có chúng sinh si mê nên Bồ Tát mới phát đại nguyện cứu khổ, đó đều
là do tâm đại từ đại bi muốn phương tiện dẫn dắt họ về với Chánh pháp đó thôi.
Vì thế, nếu nói rằng chúng sinh mê muội không thể cứu vớt mà
quay lưng đi thì không đúng tinh thần từ bi của đạo Phật. Mà như thế thì rõ
ràng chỉ hiểu đạo Phật qua lý thuyết chứ không thông suốt việc vận dụng chân lý
vào cuộc sống. Phân biệt rõ sáng suốt và mê muội là thấu hiểu được cái thể tánh
chân thật của thực tại, nhưng quay lưng với chúng sinh si mê thì đó là chưa
thấy được cái dụng của thể tánh ấy.
Đến đây, chắc anh đã hiểu rõ ý tôi. Thôi thì bản thân tôi
cũng chỉ biết cầu nguyện cho cô M. được nhẹ phần nghiệp báo, thêm chút duyên
lành với Phật pháp, để trong cuộc trôi lăn giữa chốn luân hồi này vẫn còn mong
có ngày được ánh từ quang của Phật pháp chiếu soi.
Về vấn đề thứ hai, trình bày trong 2 email anh chuyển sau.
Đó là vấn đề được mô tả qua 2 bài viết như là “vấn nạn loại tăng ra khỏi Tăng bảo” và “niệm Phật vãng sinh... ...
Chánh pháp hay mạt pháp”.
Bài thứ nhất do một vị tăng hiệu Thích G. T. viết, đã đăng
trên phattuvietnam.net (http://www.phattuvietnam.net/diendan/16397.html)
vào ngày 21 tháng 9 vừa qua.
Bài thứ hai đăng vào ngày 26 tháng 9, nghĩa là sau đó 5 ngày, (http://www.phattuvietnam.net/diendan/16447.html) ký tên M. G., có lẽ là cư sĩ và có nhắc đến bài viết thứ nhất.
Bài thứ hai đăng vào ngày 26 tháng 9, nghĩa là sau đó 5 ngày, (http://www.phattuvietnam.net/diendan/16447.html) ký tên M. G., có lẽ là cư sĩ và có nhắc đến bài viết thứ nhất.
Thưa anh, việc anh quan tâm đến các bài viết này có lẽ cũng
là do bức tranh ảm đạm, tăm tối mà các bài viết này đã vẽ nên. Thế nhưng, sau
khi đọc kỹ thì tôi thấy sự việc chẳng có gì to tát cả, và thậm chí là sự quan
tâm quá đáng của những người viết bài dường như trong một chừng mực nào đó đã
làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Tôi cũng hơi lấy làm lạ là hiện có rất
nhiều chuyện đáng quan tâm hơn, thực sự quan trọng hơn, nhưng lại thấy rất ít
người quan tâm đến. Trong một phần sau của bài này, tôi sẽ quay lại với suy
nghĩ đó.
Trước hết, về mối ưu tư của vị thầy Thích G. T. là "Tăng sẽ
bị loại trừ ra khỏi Tam bảo", mà nguyên
nhân là do một số cư sĩ tuy đã quy y, có niệm Phật nhưng không thừa nhận vai
trò của Tăng Ni. Những người này được đề cập đến như là các "ban hộ
niệm tự phát", chuyên lo việc hộ niệm cho những người lâm chung, nhưng
theo thầy G. T. thì họ không thực hành đúng Chánh pháp, nhất là họ tỏ rõ sự
"dị ứng" với chư vị tăng ni. Thầy trình bày vấn đề khá chi tiết thông
qua trích lời một người phụ nữ và đến gần kết bài viết thì thầy buông ra một
đoạn văn hết sức thống thiết như sau:
... Cá nhân tôi nếu
các vị trong BHN mà cùng ngồi xuống cho chúng tôi giáp mặt, chúng tôi lạy các
vị vạn lạy, như năm xưa khi thọ giới lớn về tôi lạy bộ kinh Vạn Phật để trả ơn
Tam Bảo, trả ơn giới sư đã truyền giới cho tôi tu hành.
Tôi lạy các vị và kêu
lên thống thiết rằng: “Các vị đừng bỏ
công ăn việc làm, đừng bỏ công việc gia đình, đừng tránh né đưa đón con đi học,
đừng xao lãng trách nhiệm làm vợ, làm cha để dành hết thời giờ cho BHN tự phát,
để cầu cho người chết được vãng sinh (mà có thật vãng sinh không?) mà đạo pháp thì lụi tàn, Tăng Bảo không còn ở thế gian. Ngoại đạo tung hoành truyền đạo
giữa chốn không người."
Xuất phát từ sự mê muội của một nhóm người – cứ tạm cho là như thế – mà một vị tăng phải
thống thiết than van, phải hạ mình nói ra những câu như thế với hàng cư sĩ,
theo tôi nghĩ quả thật là không đáng! Như thế thì còn đâu cái phẩm chất cao quý
của bậc Như Lai trưởng tử, của bậc Tam giới Đạo sư? Nhất là khi thầy "lạy các vị vạn lạy, như năm xưa khi
thọ giới lớn về tôi lạy bộ kinh Vạn Phật để trả ơn Tam Bảo" thì thật
là lầm lẫn quá lắm! Sao lại có thể so sánh việc cúi lạy những kẻ mê muội đang
làm hại đạo pháp –
theo cách nhìn của thầy –
với việc lạy Kinh điển để trả ơn Tam bảo? Điều đó liệu nói lên được chút ý
nghĩa tích cực gì? Lẽ ra, thầy phải nghĩ cách giáo hóa họ, làm cho họ hiểu đúng
về Chánh pháp, đưa họ về đường ngay nẻo chánh, chứ sao lại "lạy các vị vạn lạy" là ý nghĩa gì? Thầy là người tu theo
hạnh từ bi của Phật, rèn luyện tuệ giác của Phật, ít nhiều phải sáng suốt hơn
mới thấy được sự mê lầm của họ. Sao không dùng ánh sáng trí tuệ phá trừ bóng
tối si mê, mà lại... xuống nước van lạy họ? Để họ cảm động mà từ bỏ sự mê lầm
được chăng? Có lý nào lại như thế?
Giờ nói qua một vài suy nghĩ của tôi về các nhóm hộ niệm mà
thầy G. T. đề cập trong bài viết. Thật ra, cũng không thể nói rằng họ đều là
những người sai lầm, sa đọa. Nói một cách tổng quát thì việc làm của họ biểu lộ
hiện nay là sai lầm, nhưng nếu ta không hiểu cặn kẽ hơn về họ thì rất khó lòng
chuyển hóa hay làm cho họ thay đổi được. Đa số họ đều tin chắc vào pháp môn
Tịnh độ nhưng không có một vốn hiểu biết sâu xa về Phật pháp, từ đó dẫn đến
hiểu sai, diễn giải sai về ý nghĩa kinh điển, và do đó tất yếu dẫn đến thực
hành sai. Nhưng nếu quơ đũa cả nắm mà bảo họ cố tình phá hoại đạo pháp và "... còn đáng lo đáng sợ hơn nhiều so
với chuyện cải đạo tín đồ Phật giáo công khai mà các tôn giáo khác đang thực
hiện khắp mọi miền đất nước mà mọi người đều nhìn thấy" thì e là không
đúng. Họ tin pháp môn Tịnh độ, nhưng việc hiểu sai ý kinh, thực hành sai lệch,
trước hết là do sự mê muội của chính bản thân họ, nhưng tiếp đó cũng cần phải
xem lại. Khi nói rằng "họ đều có quy
y, có pháp danh", vậy tức là họ cũng đã từng quỳ lạy quý thầy để thọ
Ngũ giới, nhưng liệu những vị thầy mà họ quy y đã làm được gì cho họ? Đã dạy
dỗ, giáo hóa họ như thế nào? Và tại sao họ có thái độ "dị ứng" với
tăng ni? Những chuyện này, tôi nghĩ không thể không xem xét đến, vì như trong
bài viết cũng thừa nhận là họ không chỉ một, hai người, mà là một số đông đến
mức đáng lo ngại.
Sự sai trái của những người này là không có gì để bàn cãi.
Nhưng đưa họ ra như một hiện tượng "phá hoại đạo pháp" thì phải xem
lại. Công bằng mà nói, họ mới chính là những người đang rất cần được quý tăng
ni giáo hóa, và cần phải giáo hóa họ trước hết, phải quan tâm họ hơn cả những
Phật tử thuần thành đang thường xuyên về chùa. Còn nếu chư vị tăng ni từ chối
trách nhiệm này thì ai sẽ giáo hóa họ?
Bây giờ nói đến việc "vấn
nạn loại tăng ra khỏi Tam bảo". Chuyện này theo tôi là một cách đặt vấn đề hoàn toàn vô lý và thậm chí
trong đó còn hàm ý xem thường Tam bảo. Vì sao vậy? Một nhóm người si mê lầm
lạc, không hiểu Chánh pháp nên đi lạc đường, mà lại có thể đủ sức làm tan rã,
sụp đổ Tam bảo, thì liệu đó có còn là Tam bảo nữa chăng? Nếu họ có thể thành
công trong việc loại trừ chư Tăng ra khỏi Tam bảo, thì liệu chư tăng có còn là
Tăng bảo nữa chăng? Chánh pháp trường tồn do sự đúng thật của chân lý Phật dạy,
chứ không phải nhờ vào sức mạnh hay bất kỳ tổ chức nào. Các pháp nạn trong lịch
sử đã từng chứng minh, khi chư tăng bị truy sát, giết hại, chùa chiền bị đập phá, kinh
điển bị thiêu rụi... nhưng rồi Tam bảo vẫn tồn tại, đạo Phật vẫn tồn tại đến
nay đó thôi. Tam bảo uy nghi sừng sững giữa thế gian, đến Ma vương Ba-tuần thần
thông quảng đại cũng không thể phá hoại, sao lại có thể suy vi vì một nhóm
người mê muội? Đối với tôi, điều này là hoàn toàn vô lý.
Điều đáng lưu ý hơn lại chính là cách đặt vấn đề trong bài
viết này. Mượn lời một phụ nữ, thầy G. T nêu lên trường hợp của cư sĩ Đoàn
Trung Còn và cư sĩ Mai Thọ Truyền như là những
người đã từng "tẩy chay" Tăng bảo, rồi liên kết những người trong
các "Ban Hộ niệm tự phát"
với 2 vị này. Những điều này hoàn toàn sai sự thật và thật nguy hiểm, vì nó vừa
xúc phạm những vị cư sĩ đáng kính đã từng đóng góp rất nhiều cho Phật pháp, lại
vừa tạo ra một ấn tượng bất hòa giữa tăng ni và cư sĩ, vốn là điều hoàn toàn
không nên có trong đạo Phật.
Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là cây đại thụ trong giới cư
sĩ miền Nam, được so sánh với cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám ở miền Trung, đều là
những người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo. Còn việc ông có thái độ
gì bất kính với chư Tăng, quả thật tôi chưa từng nghe biết! Ngôi chùa Phật học
Xá Lợi quả là do ông đứng ra cáng đáng việc xây dựng từ đầu đến cuối, nhưng tên
chùa là do Cố Hòa thượng Thích Khánh Anh
đặt cho. Chưa nghe ai nói ông xây chùa này cho giới cư sĩ cả! Anh có thể đọc
thêm về vị cư sĩ này tại đây:
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-86_4-14241_5-50_6-1_17-113_14-1_15-1/
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-86_4-14241_5-50_6-1_17-113_14-1_15-1/
Về cư sĩ Đoàn Trung Còn, vừa là một học giả Phật giáo thuộc thế hệ trước, vừa là một người tận tụy với Phật pháp cho đến tận cuối đời. Đóng góp của ông vô cùng lớn lao, không ai có thể phủ nhận được. Còn việc ông tham gia thành lập Tịnh độ Cư sĩ Việt Nam không có tăng hiện diện trong đó thì cũng là điều tất nhiên, vì như tên gọi đã nói rõ, ông chỉ quy tụ những người cư sĩ tu Tịnh độ vào hội này. Nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là họ tu tập không có chư tăng dẫn dắt. Việc cho rằng ông "vì bất mãn một số các thầy (tăng)" nên mới thành lập Tịnh độ Cư sĩ Việt Nam là điều hoàn toàn vô căn cứ, thậm chí có thể xem là vu cáo người đã khuất. Anh có thể đọc thêm về vị cư sĩ này tại đây:
Còn một sự thật khác có thể chứng minh rằng luận điểm trên
là hoàn toàn sai lầm. Đó là chính bản thân cư sĩ Đoàn Trung Còn trong suốt nửa
cuối của cuộc đời đã xuất gia thọ giới tỳ-kheo thành một vị tăng nghiêm trì
giới luật. Ngay trước khi viết bài này, tôi đã điện thoại nói chuyện với anh
Đoàn Trung Việt, con trai của cư sĩ Đoàn Trung Còn, để xác nhận sự thật này.
Hiện anh Việt vẫn còn lưu giữ các giấy tờ liên quan đến việc xuất gia của cư sĩ
trước đây. Nếu như quả thật có chuyện "đường lối là đối lập hẳn với Tăng
Bảo, tìm cách loại Tăng giống như Cư Sĩ Đoàn Trung Còn và Cư Sĩ Mai Thọ Truyền
năm xưa" thì làm sao ông lại có chí nguyện xuất gia? Quả là vô lý!
Một điều đáng buồn là trong bài viết của thầy G. T. có quá nhiều
điểm không phù hợp với tinh thần Phật pháp. Chẳng hạn, nói về việc chư tăng đến
tụng niệm phải có tiền công đức, tiền lễ tạ... thầy viết (qua lời nhân vật phụ
nữ trong bài): "Không công đức, không tạ lấy đâu tu sửa chùa chiền, nuôi
chúng điệu ăn học, tiếp nối phật pháp tương lai."
Điều này thật quá sai
trái. Phật pháp chưa bao giờ tồn tại và tiếp nối nhờ vào những đồng tiền cúng
tạ hay công đức đó. Bậc phước điền của nhân gian, sở dĩ nhận cúng dường là để
tạo điều kiện cho người thế gian gieo trồng phước đức (như nghĩa của chữ phước
điền – ruộng phước),
chứ không phải để dùng tiền ấy duy trì Phật pháp. Chư Tổ xưa kia – và cả hiện nay – nhiều vị không hề tham
gia những việc cúng kính, lễ lạt, họ vẫn có thể tu tập thành tựu, hoằng dương
Chánh pháp. Còn nói dùng tiền đó để tu sửa chùa chiền thì càng sai lệch. Nhiều
ngôi chùa hiện nay đã xây và đang xây, kinh phí đến hàng chục tỷ đồng, Phật tử vẫn
cung kính đóng góp đầy đủ, đâu đợi quý thầy phải "gom tiền đi cúng"
về để xây?
Và đây là lời của chính vị sư trong bài viết của thầy G. T.
"Chùa xây cất
được là từ những đồng tiền hỷ cúng của phật tử khi mời chư tăng đến nhà hộ
niệm, hiếu sự, các vị làm thay việc của quý chư tăng hết, phật pháp sẽ không
còn tồn tại ở thế gian."
Tôi hỏi thật nhé, anh Q, N. có nghĩ điều này là đúng chăng? Chỉ
vì một đám cư sĩ lo hết chuyện hộ niệm, hiếu sự mà thầy cho rằng quý chư tăng đã
hết chuyện làm, và Phật pháp sẽ không còn tồn tại ở thế gian. Ôi! Sao lại có lý
lẽ như thế được? Lẽ nào chư tăng chỉ lo mỗi những việc hộ niệm, hiếu sự thôi sao? Và lẽ nào Phật pháp tồn tại chỉ nhờ chư tăng
có làm những việc này?
Theo tôi, chính bởi cách hiểu về chư tăng như thế nên mới
nảy sinh cái thảm họa có những người xem thường tăng ni, thiếu cung kính với
Tăng bảo. Tất nhiên những người ấy là hoàn toàn sai trái rồi, nhưng bản thân những
ai hiểu về vai trò của chư Tăng một cách cạn cợt như trên cũng cần phải xem
lại, nếu không thì chính mình sẽ làm mất đi giá trị của Tăng bảo mà không tự biết.
Thật ra, điểm khác biệt quan trọng nhất giữa chư tăng và cư
sĩ không phải ở những việc như cất chùa, giảng
giải, dịch kinh, viết sách... như thầy G. T. nêu ra. Những việc này vẫn có những
cư sĩ làm được và thậm chí có khi còn làm tốt hơn cả chư tăng. Những ngôi chùa
lớn xưa kia đều do các vị vua chúa hoặc những người giàu có (cư sĩ) xây dựng,
hoàn tất rồi mới thỉnh chư Tăng về an trú. Cư sĩ giảng kinh cho chính quý thầy
ngồi nghe thì gần đây có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám mà tôi vừa nhắc ở trên.
Lớp Phật học đầu tiên của thế kỷ trước tại chùa Báo Quốc có mời ông đến giảng thường
xuyên cho các vị học tăng. (Mỗi khi đi giảng ông đều mang theo kinh, sách trong cặp,
bước lên xe ngồi là mở ra xem, cho đến nơi mới gấp sách lại, không bỏ phí dù
chỉ một chút thời gian. Phẩm chất cao quý của ông khiến cho ai đã từng gặp cũng đều mến mộ.)
Việc dịch kinh, viết sách cũng vậy, xưa nay chưa hề có phân biệt tăng hay cư sĩ, tất cả đều có sự đóng góp tích cực cho Đạo pháp. Thế nhưng, tất cả những vị cư sĩ chân chính đều duy trì sự cung kính đối với chư tăng ni, bởi họ luôn hiểu được chỗ khác biệt quan trọng nhất giữa bản thân họ với những người đứng vào hàng Tăng bảo: Đó chính là sự nghiêm trì giới luật và đạo hạnh cao quý. Một vị tăng dù chưa từng xây chùa, giảng kinh, viết sách... nhưng chỉ cần nghiêm trì giới luật, tu tập chân chánh là đã đủ xứng đáng cho hàng cư sĩ quỳ lạy cung kính. Ngược lại, một vị tăng dù có công vận động xây dựng chùa lớn, có tài uyên bác thuyết giảng kinh luận thông suốt, nhưng nếu không sống theo đúng giới luật, không giữ được đạo hạnh, thì bản thân vị ấy đã không xứng đáng đứng trong Tăng đoàn, đã không thể xem là một phần của Tăng bảo. Sự khác biệt giữa chư tăng và cư sĩ cần phải được hiểu như thế.
Việc dịch kinh, viết sách cũng vậy, xưa nay chưa hề có phân biệt tăng hay cư sĩ, tất cả đều có sự đóng góp tích cực cho Đạo pháp. Thế nhưng, tất cả những vị cư sĩ chân chính đều duy trì sự cung kính đối với chư tăng ni, bởi họ luôn hiểu được chỗ khác biệt quan trọng nhất giữa bản thân họ với những người đứng vào hàng Tăng bảo: Đó chính là sự nghiêm trì giới luật và đạo hạnh cao quý. Một vị tăng dù chưa từng xây chùa, giảng kinh, viết sách... nhưng chỉ cần nghiêm trì giới luật, tu tập chân chánh là đã đủ xứng đáng cho hàng cư sĩ quỳ lạy cung kính. Ngược lại, một vị tăng dù có công vận động xây dựng chùa lớn, có tài uyên bác thuyết giảng kinh luận thông suốt, nhưng nếu không sống theo đúng giới luật, không giữ được đạo hạnh, thì bản thân vị ấy đã không xứng đáng đứng trong Tăng đoàn, đã không thể xem là một phần của Tăng bảo. Sự khác biệt giữa chư tăng và cư sĩ cần phải được hiểu như thế.
Và ở đây mới chính là chỗ chúng ta cần quan tâm. Chỉ cần chư
Tăng nghiêm cẩn tuân theo Giới luật –
như Phật từng dạy, phải lấy Giới luật làm thầy –
và duy trì được nếp sống đạo hạnh, thì không có gì phải lo âu vì đám cư sĩ mê
muội lầm lạc kia, làm sao họ có thể đủ sức mà "loại tăng ra khỏi Tam
bảo"? Còn nếu có những vị tăng không ra tăng, giới luật không giữ theo, sống
buông thả phóng túng, thì chính những người ấy đã tự loại mình ra khỏi Tăng
đoàn, đã không xứng ở trong Tăng bảo, mà dù không ai loại trừ họ, thì một khi
nhắm mắt xuôi tay họ cũng không thể lừa dối được luật nhân quả.
Bởi vậy, bổn phận người cư sĩ vẫn là phải luôn cung kính đối
với Tam bảo, cho dù có những kẻ lẫn lộn trong Tăng đoàn không giữ được tư cách của
một vị tăng, thì đó cũng không phải việc của hàng cư sĩ có thể mang ra phê phán
hay bất mãn như lời thầy G. T. đã gán cho các vị Đoàn Trung Còn và Mai Thọ
Truyền trong bài viết này. Mà chuyện thầy lo "chư tăng bị loại ra khỏi Tam bảo" lại là chuyện hoàn
toàn vô lý và khó hiểu.
Đến đây, có lẽ anh Q. N. cũng đã hiểu hết được ý tôi. Còn
bao nhiêu việc khác mà thầy G. T. nêu ra trong bài, cũng như tác giả M. G. nhắc
lại và tô đậm thêm trong bài viết sau đó, theo tôi cũng đều là những chuyện tương
tự như thế. Lời xưa có nói: "Vàng thật không sợ lửa." Tôi nghĩ câu
này có lẽ thích hợp để nêu lên ở đây. Chỉ cần quý tăng ni đều là "vàng
thật", thì đám người mê muội kia sẽ chẳng làm được gì ngoài việc tụ họp và
lôi kéo những người cũng mê muội như họ. Nhưng nếu chư tăng thể hiện được vai
trò giáo hóa của mình, thì tôi tin rằng cũng sẽ có không ít người trong bọn họ sớm
quay về đường ngay nẻo chánh.
Giờ tôi xin quay lại với điều mà tôi cho là đáng quan tâm
hơn những gì đã nêu ra trong các bài viết này. Đó là một vấn đề cũng liên quan
đến Tam bảo. Chúng ta ai cũng biết, Tam bảo khởi đầu từ đức Phật; sau khi đức Phật
chuyển Pháp luân thì thế gian có Pháp bảo; sau khi có những người phát nguyện lìa
bỏ thế tục, trọn đời đi theo con đường Chánh pháp thì thế gian này có Tăng bảo.
Thế thì, có Phật mới có Pháp; có Pháp mới có Tăng, có Tăng rồi mới trọn đủ Tam
bảo. Nay chúng ta không cần phải lo "tăng
bị loại ra khỏi Tam bảo" như thầy G. T. mà thực sự nên lo cho việc Pháp
bảo không được quan tâm lưu truyền, gìn giữ. Có lẽ đã đến lúc chư tăng cần quan
tâm nhiều hơn đến việc này, thay vì là để buông xuôi tự phát đến đâu thì đến
như trong suốt thời gian qua. Nếu được như vậy, người cư sĩ sẽ có nhiều điều
kiện hơn để hiểu đúng Chánh pháp, sẽ giảm thiểu đi những kẻ mê muội lầm đường lạc
lối.
Chánh pháp là phương tiện duy nhất của chư Tăng để hàng phục tà ma ngoại
đạo, cũng là để giáo hóa chúng sinh. Nếu Chánh pháp được xiển dương thì có gì phải
lo ngại đối với những kẻ mê muội hay đối với ngoại đạo tà giáo?
Đôi lời thô thiển, hy vọng có thể giúp anh giải trừ đôi phần
nghi ngại. Tôi thường rất ít khi dành thời gian cho những bài viết như thế này,
bởi còn rất nhiều việc khác đang dở dang cần hoàn tất. Tuy nhiên, đã nhận được thư
anh với sự quan tâm đúng đắn về Đạo pháp, làm sao tôi có thể không trả lời? Vì
thế mới tùy tiện viết ra bài này chỉ trong thời gian ngắn ngủi, nếu còn có những
chỗ nào sơ sót mong anh bỏ qua cho.
Thân chúc anh và gia quyến vạn an, tu tập tinh tấn.
Thân kính,
Nguyễn Minh Tiến